Thứ Hai, 21 tháng 10, 2013

Thành phố kín




Trước khi gặp bà Đen, nó không hề biết đến giống chuột mắt đỏ lông trắng. Thành phố này chỉ còn vài con chuột xám què quặt bị đám trẻ tật nguyền săn lùng ráo riết.
Nó là một đứa trẻ tật nguyền mang mầm mống tội lỗi, trong một buổi chiều săn lùng tàn khốc. Như trăm ngàn buổi chiều săn lùng tàn khốc khác trong thành phố Kín, ánh mặt trời khuất sau bờ tường đá cao ngất ngưởng, bóng đêm mờ xám mò mẫm kéo ngang qua hàng sấu cổ thụ. Thời khắc cái chết lên ngôi săn lùng và huỷ diệt. Tiếng hét man dã từ khu giếng hoang vọng đến đập hung tợn lên những cánh cửa đóng kín. Thằng Què kéo lết đôi chân còng queo trên con đường ngổn ngang gạch đá. Thân hình còm cõi chao đảo liên hồi trong cố gắng tuyệt vọng. “Nhanh. Nhanh lên.”
Nó không thể nào chạy nhanh hơn bóng tối. Nó không thể nào đập cửa những ngôi nhà đổ nát bên đường để xin tá túc. Những cánh cửa đã bị khoá kín và chẳng có ai trong những ngôi nhà ấy. Bọn trẻ còn sống sót đã kéo cả về khu tập trung trước khi mặt trời trở bóng. Những con đường trong phố Kín buổi chiều tàn vắng ngắt. Tiếng gào thét của đám oan hồn khu giếng hoang càng lúc càng tiến đến gần. Chúng vừa tỉnh dậy sau một ngày mục nát. Sự hồi sinh của bóng đêm đang làm chúng hoá điên. Chẳng mấy chốc, thành phố này sẽ thuộc về chúng. Sự trả thù tàn khốc của quỷ sẽ bắt đầu.
Nó không muốn bị bắt trên đường để biến thành một cái xác dúm dó tả tơi. Khi buổi sớm mai kéo qua những dãy nhà đổ, sẽ chẳng ai xót thương nhận ra nó, nằm ấp mặt trên hè phố với cái đầu bị răng quỷ lột sạch da. “Nhanh. Nhanh lên.” Nó cố bươn về phía trước, dù biết rằng, nó không thể nào về kịp khu tập trung trước khi ánh sáng cuối cùng tắt ngấm. Tiếng gào la đã lan đến góc phố Tô Hiệu. Trong giây phút tuyệt vọng cuối cùng, nó lao vào ô cửa dưới chân tường, kéo mạnh tấm song sắt. Khe cửa hé mở vừa kịp cho nó đạp chân chuồi người qua. Nó không kịp nghĩ vì sao trong thành phố này vẫn còn một cánh cửa không khoá vào ban đêm. Những âm thanh hung tợn từ góc đường tràn đến đẩy nó ngã nhào vào bên trong.
Bên trong tối tăm và ẩm ướt. Nó men theo bức tường gạch lùi dần lại, tránh xa khung cửa sổ, càng xa càng tốt. Bọn oan hồn đang sục sạo gào la bên ngoài. Chúng đòi công lý, đòi trả thù, đòi tự do, đòi mạng sống của những đứa trẻ tật nguyền.
Nó là một đứa trẻ tật nguyền bị ném vào phố Kín khi vừa lên năm tuổi. Cái tuổi giới hạn cuối cùng để bắt đầu gánh chịu tội ác. Đấy là điều ít ỏi nó biết về bản thân, ngoài một vài hình ảnh lờ mờ của ông bố béo ịt và một cái tên chẳng còn ai gọi đến. Trong thành phố này, bọn trẻ con không còn tên tuổi và gốc gác. Tên thủ lĩnh gọi nó là thằng Què. Nó và những đứa trẻ khác lén lút gọi tên thủ lĩnh là thằng Chột.
Thằng Què lết đôi chân khập khiễng men theo bờ tường. Con đường thụt dần xuống bên dưới như dẫn vào tầng hầm của khu nhà. Những ngôi nhà đổ nát trong phố Kín này đều có những khu nhà hầm quanh co kỳ bí. Đôi lúc chúng thông nhau, dẫn đi xa tít đến tận một con phố nào đấy ở Thanh Trì. Bởi thế mà thằng Chột cho đóng kín tất cả các cánh cửa dẫn vào dãy nhà đổ. Hắn muốn bọn trẻ ban đêm dồn cả về khu tập trung, dưới quyền kiểm soát của băng đảng Độc Nhất. Đấy là luật lệ để sống còn, để tập trung lực lượng chống lại kẻ thù bên ngoài. Đã từng có thời kỳ, một bọn trẻ ly khai dưới sự lãnh đạo của thằng Gù lập được chiến tuyến trong phố Hoàng Mai. Cuộc chiến giữa hai băng đảng giành lương thực và quyền thống trị diễn ra khốc liệt suốt hai năm trời, tiêu diệt hết hai phần ba dân số trong phố Kín. Máu người chết đã nuôi bọn quỷ đói tăng thêm sức mạnh, đến độ chúng đủ sức chiếm ngự hoàn toàn bóng tối. Mười tiếng của màn đêm thành phố thuộc về oan hồn, bọn trẻ phải dồn vào khu tập trung tử thủ. Ở đấy những bức tường được sơn kín bằng máu chuột, rào cản duy nhất có thể ngăn được sự tấn công của quỷ. Nhưng chuột trong thành phố cũng khan hiếm dần. Ngay cả khi thằng Chột mỗi ngày đem xác chết ra quảng trường để nhử chuột, thì bọn chúng cũng chỉ bắt được vài con quặt quẹo.
Thằng Què men theo bờ tường lần xuống bên dưới. Ở đoạn bên trong, con đường hầm chia làm nhiều ngõ ngách. Ánh sáng lờ mờ soi lên những đoạn giàn chống cong oằn giăng đầy mạng nhện. Nó không định bò đi xa, chỉ muốn ở qua đêm trong im lặng để chờ trời sáng, nhưng tiếng săn lùng ở cuối đường hầm nơi có ô cửa sổ thông ra đường làm nó sợ hãi. Chỉ cần ngồi thật im, chỉ cần đừng gây động là bọn cô hồn đói khát sẽ không tìm đến. Nhưng tiếng gầm gừ ghê rợn vẫn tiến đến gần, lần qua góc quanh cuối đường hầm. Nó ngồi co rút lại, hai tay ôm chặt cẳng chân khẳng khiu. Bàn tay nó ướt nhơm nhớp. Khi đấy nó mới nhận ra vết thương trên bắp chân lúc trườn qua khung cửa sắt. Máu nhỏ trên đường hầm đã dẫn đường cho bọn quỷ tìm đến.
Nó cởi cái áo rách quấn quanh bắp chân, cố không gây tiếng động, tiếp tục bò vào bên trong. Con đường hầm thu hẹp dần, nó bò qua một đoạn xà gãy thì bị giữ lại. Chỗ này gạch đá đổ xuống bít kín. Nó lần mò tuyệt vọng giữa vùng không gian tối đen chật hẹp, chẳng tìm được lối thoát. Tiếng kêu gào vẫn váng vất đuổi theo phía sau.
Một đốm trắng lờ mờ hiện ra trước mắt nó, dao động như bóng nắng. Nó rụt rè chạm tay vào đấy, thấy mềm mại như túm lông. Đốm trắng di chuyển ngược lại. Nó thụt lui lần mò bò theo. Ngay phía sau chân nó, có một ngách đường dẫn sâu thêm về bên dưới. Ở nhiều đoạn rộng dần, nó nhổm dậy bò rồi lom khom bước đi. Những tiếng kêu khát máu phía sau cũng đã tắt hẳn. Trong bóng tối, nó nhận ra rất nhiều đốm trắng toả lân tinh, chúng ríu rít di chuyển về một hướng.
Qua một đoạn hầm rộng rãi, không gian thoáng mát có vẻ như là căn phòng lớn. Ở một góc xa, ánh sáng heo hắt rọi lên vách tường đất.
Nó ngạc nhiên gần như nghẹn thở. Từ bao lâu nay thằng Chột đã săn lùng giết chết tất cả những kẻ sống ngoài quyền kiểm soát của hắn. Lẽ nào dưới một tầng hầm ngay cạnh khu tập trung vẫn có kẻ lẩn trốn mà lại ngang nhiên đốt đèn. Nó cột lại tấm áo trên vết thương, rụt rè men theo đường hầm dò hướng ánh sáng.
Qua hai khúc quanh, nó đến được cánh cửa sắt kiên cố. Ánh sáng rọi ra từ gian phòng phía sau cánh cửa thật ra chỉ từ một ngọn nến rất nhỏ. Nhưng ánh sáng phát ra trong bóng đêm mờ mịt có một sức thu hút lạ thường. Nó đứng chết sững, đăm đăm nhìn vào ngọn nến cháy lung linh. Người đàn bà mặc áo đen ngồi trong góc nhà lặng lẽ quan sát nó. Bà ta không ngạc nhiên, không giận dữ, chỉ bình thản như chờ dợi. Nó không nhận ra người đàn bà phía sau vùng ánh sáng êm ả huyễn hoặc đấy. Nó chỉ choáng váng vì một cảm giác khác. Ánh sáng nơi này không báo hiệu sự giết chóc.
Đêm trong trại tập trung là những giờ khắc ám ảnh, ánh sáng luôn báo hiệu cái chết. Những đứa trẻ bị bóng tối giam cầm thoi thóp ngủ trong nỗi sợ hãi. Không gian giữa bốn bức tường bôi đầy máu chuột này thuộc về quyền kiểm soát của thằng Chột. Bên ngoài phố Kín, bọn cô hồn đói khát lượn lờ trên những nẻo đường đổ nát. Chỉ cần một tiếng động, một nguồn sáng là bọn chúng sẽ nổi cơn điên loạn tìm đến. Thằng Què thường nằm sấp, dán chiếc bụng lép kẹp xuống nền đất lạnh. Khác với những đứa trẻ chung quanh luôn nằm co quắp trong tư thế sợ hãi, nó ép bụng xuống đất để tưởng mình biến luôn vào lòng đất. Con bé Câm có khuôn mặt hiền như hoa xấu hổ vừa bị hai tên thủ hạ xốc nách lôi qua dãy phòng của thủ lãnh. Trong đêm vắng, nó nghe tiếng bạn mình thét lên thảng thốt, tiếng chửi rủa cộc cằn, tiếng ú ớ nghẹn ngào tức tưởi. Ánh sáng đột ngột loé lên trong dãy hành lang. Bọn cô hồn bên ngoài kêu rú lên, lao ầm ầm vào vách tường đá. Nó nằm dán chặt cái bụng run rẩy xuống nền đất, hai bàn tay ướt đẫm mồ hôi bịt kín lỗ tai. Những đứa trẻ khác co quắp trên sàn nhà như những con cuốn chiếu.
Buổi sáng, nó đi tìm bé Câm ở khu quảng trường Ngô Thì Nhậm. Thằng Chột đã cho bọn thủ hạ đem xác bé Câm ra đống gạch đổ để nhử chuột. Nó quỳ xuống bên thân thể trần truồng bầm dập của bạn. Bàn tay gầy guộc lần lên những cái xương sườn thanh mảnh bầm tím của xác chết. Lần đầu tiên nó hiểu rằng, ngoài cảm giác sợ hãi thường trực, nó còn có một cảm giác khác là đau khổ. Nước mắt nó chảy từng giọt rơi xuống bộ ngực vừa nhú hạt nhãn của đứa con gái. Trên những vọng gác cao ngất ngưởng bao quanh tường đá, những khuôn mặt lạnh lùng đang cúi xuống quan sát nó. Chốc nữa sẽ là giờ ném lương thực và thả trẻ em xuống quảng trường. Cái xác của bé Câm sẽ bị đống bao tải và chân người cày xéo lên không thương tiếc.
Nó cởi tấm áo ca-rô cũ quấn quanh người bé Câm, kéo cái xác còm cõi của bạn vào nơi góc tường đổ của nhà văn hoá thể thao. Ở nơi này, trong buổi sáng đầu tiên, hai đứa đã run rẩy tìm đến bên nhau, nép vào nhau chia chút hơi ấm. Chúng cùng bị thả xuống phố Kín vào một ngày mưa phùn mờ mịt, trong hai cái rọ tre.
Nếu không có bà Đen thì những đứa trẻ tàn tật như nó và bé Câm đã chết ngay khi bị thả xuống quảng trường cùng những bao thức ăn. Đấy là những ngày mà cuộc chiến giữa băng đảng Độc Nhất và quân ly khai đang trong thời điểm tàn khốc nhất. Cả hai bên đều cần lương thực và sẵn sàng giết chết những cái miệng háu đói bụ bẫm, còn chưa quen với cuộc sống khắc khổ thiếu thốn của thành phố. Quảng trường này là nơi nhận lương thực do thế giới bên ngoài cung cấp, là nơi biểu dương sức mạnh của kẻ thống trị, là nơi đám oan hồn đêm đêm kêu khóc đòi trả mạng. Không khí nơi đây lạnh rợn người, cả trong những ngày nắng nóng nhất của thành phố. Dãy tường đá cao ngất trơn tuột đứng sừng sững bao bọc phố Kín, cách ly thành phố bị nguyền rủa với thế giới lành lặn bên ngoài. “Người ta không thể xua đuổi huỷ diệt những oan hồn đã cắm chặt máu trên quảng trường này. Người ta chỉ có thể bao vây quảng trường và đẩy những đứa trẻ tật nguyền vào đây.” Bà Đen thì thầm kể cho nó nghe sự thật về những bức tường.
“Một ngày nào đấy, những oan hồn bị giam giữ trong phố Kín sẽ đủ mạnh để vượt qua tường thành. Khi đấy, cả thế giới lành lặn bên ngoài cũng sẽ thuộc về chúng.”
Nó run run đặt bàn tay nhóp nháp mồ hôi lên gò má mịn màng thanh khiết của bé Câm. Cái xác hiền lành của đứa con gái nằm đây nhưng linh hồn của nó đã bị quỷ dữ đưa về giếng hoang. Bà Đen lẩm nhẩm tính, nó và bé Câm ở khoảng tuổi mười ba. Con số đấy chẳng gợi cho nó một ý niệm nào. Thời gian trong thành phố Kín chỉ có ngày đêm, không có năm tháng.
Con chuột bạch nằm trên lòng bàn tay nó nhấp nháy liên tục cái mũi màu hồng. Bà Đen ngồi giữa đống thùng gỗ, lẩm nhẩm nói:
“Trong niêm mạc mũi chuột có vùng biểu mô cảm nhận mùi. Ở đấy có rất nhiều thụ quan hình dạng như những chiếc lông cực nhỏ...”
Bà Đen có những hiểu biết không giới hạn về đời sống và tập tính của chuột. Nhưng những điều bà thường lảm nhảm kể là những khái niệm quá xa lạ với một thằng bé bị nhốt trong phố Kín. Nó chỉ hiểu được một điều quan trọng, những con chuột trắng được bà Đen huấn luyện để chuyển tải lương thực về tầng hầm cho bà. Nhờ số lương thực này mà bà Đen đã cứu sống nhiều đứa trẻ mới bị ném vào phố. Trong trí nhớ mông lung, nhiều lần nó đói lả ngã gục bên bờ tường rồi lần hồi tỉnh lại, bò về được trại tập trung. Giờ đây ở tuổi mười ba nó không còn biết mình no hay đói, chỉ vất vưởng sống như cây cỏ dại vào mùa khô hạn. Khẩu phần ăn ít ỏi mỗi ngày nhận được từ thằng Chột đã tiêu huỷ mọi cảm xúc của bao tử. Đôi lúc nó cũng ngạc nhiên tự hỏi vì sao những đứa trẻ lên bốn, lên năm vừa bị ném qua tường thành lại có thể béo tốt thế kia. Chúng bụ bẫm, thơm tho, sạch sẽ và luôn kêu gào vì đói. Rất ít đứa sống được qua tuần đầu tiên ở trại tập trung. Chúng không chỉ chết vì đói mà còn chết vì nhiều lý do khác.
Đứa trẻ bị đẩy vào chỗ nằm của bé Câm là một thằng béo ịt, trắng hồng, vừa bị thả vào quảng trường sáng hôm nay. Nó mù cả hai mắt nên không biết điều gì đang xảy ra chung quanh. Nó chỉ khóc luôn mồm vì đói và gào la gọi mẹ. Sau bữa ăn chiều khô mốc, nó lả đi trên nền đất, thôi kêu la. Thằng Què sợ hãi nhìn ra bên ngoài, ánh sáng đang lịm tắt dần nơi ô cửa tò vò. Không phải vô cớ mà tên thủ lĩnh đẩy thằng bé vào nằm cạnh nó. Đấy là một sự thử thách. Nó biết mình sẽ phải làm gì, và điều đấy làm nó khiếp hãi không sao ngủ được. Trong bóng đêm, nó nằm thao thức lắng nghe hơi thở khò khè của thằng bé mù. Bụng thằng bé không chịu được thức ăn sống đang sôi lên ùng ục. Đêm ở nơi này không ai được phép thở. Thằng Què dán chặt cái bụng lép xuống đất. Nếu thằng bé chỉ dừng ở mức độ thở khò khè như thế, hy vọng bọn nó sẽ qua được đêm nay.
Tiếng khóc thét bên cạnh làm nó choàng tỉnh. Thằng bé ngồi dậy từ bao giờ đang mò mẫm gọi mẹ. Nó lao đến, đè thằng bé xuống nền, đưa tay bịt miệng. Nhưng thằng mù khoẻ vô cùng, cả khối thịt nần nẫn vùng lên đẩy văng tấm thân còm cõi qua một bên. Tiếng thét tức tối gào vang cùng tiếng kêu rú của bầy quỷ bên ngoài làm cả căn phòng náo loạn. Bọn trẻ táo tác dồn cả về một góc phòng. Sự hoảng loạn bên trong thúc đẩy sự tấn công bên ngoài thêm dữ dội. Một tên quỷ không biết bằng cách nào đã leo qua được bức tường bôi máu chuột, nó nhảy vào hành lang trại tập trung và lãnh ngay phát đạn đầu tiên của thằng Chột. Viên đạn tẩm máu chuột chui vào cái xác xé toạc lồng ngực, đẩy nó ngã vật ra. Trong chốc lát, nó hiện nguyên hình người đàn ông ốm o, mặc bộ áo quần ka-ki mục rữa nằm thẳng cẳng trên mặt đất. Đám thủ hạ vội vã khiêng cái xác chết ném qua tường, trước khi nó tỉnh lại và trở thành quỷ. Ba bóng ma khác từ tường cao lao xuống cũng vừa lãnh đủ mấy phát đạn của bọn thủ hạ. Phía cửa chính, bọn oan hồn giật đứt lớp dây kẽm gai, đạp lên nhau phóng vào sân trại. Một tên thủ hạ bị chúng vồ lấy, đè ra đất. Tiếng la chưa thoát khỏi cổ họng, hắn đã biến thành cái xác bị cạp sạch da đầu. Đạn nổ như điên vào đám oan hồn hung hãn càng làm chúng trở nên hung hãn hơn.
Bên trong nhà, thằng Què lại tìm cách lao vào thằng bé đang ngoác miệng ra gọi mẹ. Trong thế giới mù loà của nó, những âm thanh chết chóc vọng đến thật kinh khiếp. Nó cào cấu, cắn xé như một con thú điên. Giữa lúc thằng Què kiệt sức, bị đạp văng ra nền đất lần thứ ba, tiếng nổ sắc lạnh vang lên giữa căn phòng. Nó chưa kịp ngẩng đầu lên nhìn, cái báng súng dữ dằn đã quật xuống màng tang.
Nó tỉnh lại trong bóng đêm câm lặng. Bàn tay sờ phải vũng chất lỏng bầy nhầy bên cạnh. Nước mắt nó trào ra mặn chát. Mấy tên thủ hạ đã mang xác thằng bé mù đi. Bọn trẻ còn lại nằm dồn hết về một góc, run rẩy ôm chặt lấy nhau. Lỗ tai bên phải nó đau nhức, co giật liên hồi. Nó trở người nằm áp bụng xuống đất, cố quên đi thằng bé xấu số. Trong cơn mơ chập chờn, nó trở về lại với cuộc sống yên lành bên ngoài. Bố và mẹ đưa nó đi trên chiếc ô-tô có ghế đệm êm ái.
“Con vào trong phố chơi với các bạn nhé. Bên trong đấy có nhiều trò chơi, nhiều bạn bè, nhiều bánh kẹo lắm.”
Chiếc rọ tre thả nó xuống quảng trường ngổn ngang gạch đá. Trong đêm hãi hùng nó thét lên gọi “mẹ ơi”. Báng súng quật ngang màng tang đau buốt.
Một lần duy nhất, nó đặt câu hỏi với bà Đen:
“Bố mẹ cháu là ai?”
Đấy là câu hỏi không đứa trẻ nào trong thành phố Kín nhắc đến. Hoặc bọn chúng đã quên quá khứ. Hoặc bọn chúng chỉ sống để nuôi dưỡng lòng hận thù với thế giới bên ngoài. Bà Đen quay mặt vào bóng tối.
“Những kẻ lành lặn nào đấy.”
Nó lặng người nhìn vào cái chân teo tóp. Giấc mơ trở về lại thế giới lành lặn bên ngoài đôi lúc len lỏi đến trong đêm mịt mùng. Nhưng chúng thường bị bóng ma mang hình ảnh thằng Chột phá nát. Nó bàng hoàng thức dậy nửa đêm, toát mồ hôi lạnh. Từ lúc nào nó đã mất thói quen nằm áp bụng xuống đất. Nó co dần lại, và như những đứa trẻ khác trong trại tập trung, nó giống như con cuốn chiếu cuộn mình trong sợ hãi.
Bà Đen nói:
“Thằng Chột là đứa duy nhất biết rõ thân thế của mình.”
Nó thở hắt ra kinh ngạc:
“Biết rõ? Bố mẹ nó?”
“Bố nó là kẻ đã ra lệnh tàn sát những người biểu tình đòi đất trên quảng trường, là kẻ đề ra chủ trương xây dựng phố Kín. Hàng viện trợ chuyển vào phố Kín cho thằng Chột cũng do hắn hoạch định. Ngoài lương thực còn cả vũ khí, điện đàm.”
“Còn cả vũ khí... điện đàm.”
Nó lảm nhảm lặp lại. Bên màng tang đau buốt, co giật từng cơn.
“Chúng phải chi viện cho thằng Chột để nó cầm chân đám oan hồn.”
“Thằng Chột cầm chân đám oan hồn.”
Nó gập người lại, nôn ra đám hạt ngô vừa trệu trạo nuốt vào. Câu chuyện về thằng Chột dừng lại ở đấy. Mấy con chuột ríu rít xông vào chỗ thức ăn nó vừa nôn ra.
Nó không hỏi vì sao bà Đen vào sống ở thành phố Kín. Nó chỉ lặng lẽ chấp nhận một sự thật, nếu không có bà, những đứa trẻ mới bị đưa vào sẽ không sống quá một tuần. Bà vẫn ngồi ở góc phòng buồn bã nhìn nó chơi đùa với lũ chuột. Một lần không nén được tiếng thở dài, bà buột miệng nói:
“Con trai ta lớn hơn cháu ba tuổi.”
Nó bò trên mặt đất nhìn đám chuột con đỏ hỏn trụi lông, lơ đãng hỏi:
“Con trai à? Ba tuổi?”
“Khi ta vào được đây, nó đã không còn nữa.”
Mấy con chuột chưa mở mắt chui rúc vào lòng mẹ, ríu rít bú. Đám chuột tha thức ăn cũng đang lúc nhúc trở về. Nó nhìn vào cánh cửa hầm bên trái nơi có từng đoàn chuột vận chuyển lương thực kéo qua.
“Đường hầm đấy đi đâu?”
“Dẫn ra thành phố bên ngoài.”
Nó rùng mình, cúi mặt xuống. Bà Đen lại chỉ tay về bên trái.
“Cháu đừng quên. Con đường bên này dẫn về khu giếng hoang.”
Nó thở hắt ra.
“Đám oan hồn?”
“Phải. Con đường dẫn ra chốn cư ngụ của đám oan hồn. Trước đây nó là nghĩa trang liệt sĩ Hà Đông. Sau ngày nổ súng, đám dân oan bị kéo xác vào vùi ở đấy, không bia mộ, không hương án, không đàn giải oan. “
“Không bia mộ, không hương án, không đàn...?”
“Thì không siêu thoát được. Thì bị giam cầm trong kiếp ma quỷ.”
“Bà không sợ ma quỷ?”
“Họ không đến đây. Họ không thích dây vào máu chuột. Nhưng khi đủ mạnh, họ sẽ tràn qua tường đá, biến cả thành phố bên ngoài thành cõi chết.”
Viễn cảnh ấy không làm nó bận tâm. Ở đây bọn chúng vẫn phải chia ngày đêm để sống chung với quỷ. Nếu một ngày nào đấy ở bên ngoài phải sống chung với quỷ thì cũng là chuyện bình thường. Nó thôi không hỏi nữa, để mặc bà Đen tiếp tục kể lể. “Cháu đừng quên...” “Cháu cần phải biết rằng...” “Cháu nên nhớ...”
Nó rất nhớ bà, khi những buổi viếng thăm bà cứ thưa thớt dần vì sự kiểm soát ngặt nghèo của thằng Chột. Đôi lúc nó nhớ ngơ ngẩn căn phòng ẩm thấp luôn khai nồng mùi nước giải chuột. Nhớ những góc nhà rác đùn lên thành ổ. Nhớ giọng nói êm êm rì rầm. “Cháu không thể trở lại cuộc sống bên ngoài được đâu. Ở đấy chỉ có những đứa trẻ lành lặn.”
“Còn gì nữa?”
“Những ngôi nhà lành lặn và những con phố phẳng phiu.”
Nó nhắm mắt lại. Cuộc sống bên ngoài hiện ra ngổn ngang hình ảnh cùng những tiếng động náo nức thường vọng đến trong đêm. Nó cố nhớ lại tuổi ấu thơ, nhưng những kỷ niệm chắp vá lại làm trí tưởng tượng của nó mệt mỏi, kiệt quệ. Nó nằm dài trên nền đất, vùi đầu vào đống rác ổ chuột, sung sướng cảm nhận sự an bình của mùi nước giải nồng ấm. Mấy con chuột nhỏ thân thiện bò lên mặt, chui rúc vào đám tóc bù xù của nó.
Chính sự bất cẩn này đã mang đến tai hoạ mà cả nó và bà Đen không hề lường trước. Thằng Chột là một đứa vô cùng thận trọng và tinh ranh. Hắn cảm nhận được sự sống dai dẳng bất thường của những đứa trẻ mới được đưa vào thành phố. Hắn ngửi được mùi nước giải chuột trên thân thể thằng Què. Thành phố này từ lâu đã không còn nhiều chuột. Máu chuột do bên ngoài đưa qua tường thành dạo này chỉ còn ở mức tối thiểu. Hắn là tên săn chuột lâu năm nhiều kinh nghiệm, ngửi được mùi nước giải chuột ở cách xa năm mét. Người thằng Què khai ngấy.
Suốt hai tuần thằng Què bị sắp xếp đưa về Thịnh Liệt tham gia tổ săn chuột. Bọn chúng đi từ sáng sớm đến chiều tà, vừa kịp về lại khu trung tâm trước khi trời tối hẳn. Nó là đứa săn được nhiều chuột nhất trong tổ. Có ngày nó vớ được ổ chuột hơn mười con, cả chuột mẹ lẫn chuột nhóc tì. Những con chuột què quặt dị dạng nhưng vẫn còn chút máu đỏ. Trong gian hầm của bà Đen nó học được khả năng đánh hơi mùi nước giải chuột, biết rõ những lối ra, lối vào, lối đào thoát của chuột. Nhưng những chiến tích đấy không làm nó hân hoan. Nó chỉ thấy lòng bứt rứt không yên. Cặp mắt soi mói độc ác của thằng Chột bám dai dẳng theo nó vào tận giấc ngủ. Một lần trong đêm, nó mơ thấy bà Đen, hai con mắt trắng dã nhìn nó đầy oán trách. Nó tỉnh dậy, lặng lẽ khóc trong bóng tối.
Buổi sáng, hai tên thủ hạ xuống phòng ngủ tập thể lôi nó ra đường. Thằng Chột xách súng đi sau. Chúng đưa nó đến dãy nhà cao tầng Văn Phú. Tim thằng Què thắt lại khi nhận ra ô cửa sổ đi vào tầng hầm bà Đen chỉ còn là một đống đất đá và xà bần ngổn ngang. Báng súng của thằng Chột quật ngang thắt lưng đẩy nó té sấp xuống mặt đường. Nó ngất đi giữa những cú đá tàn bạo, khi tỉnh dậy, trời đã quá trưa. Cả người nó đau đớn khủng khiếp như bị nghiền nát. Cái chân què không còn chuyển động được nữa. Bắp đùi sưng vù dưới ống quần rách. Nó không đủ sức đứng dậy, chỉ cố chống khuỷu tay lết về phía đống gạch. Ở đấy, nó gục đầu lên khoảng đất đã từng có ô cửa sổ cứu mạng. Nước mắt hoà lẫn với nước mũi và máu lặng lẽ nhỏ xuống.
Nó sống tiếp những ngày câm lặng trong trại tập trung. Đôi lúc, trong những lần bò vào miệng cống săn chuột, nó lại xốn xang nhớ đến bà Đen, nhưng không bao giờ có ý định trở lại khu nhà hầm tìm bà. Nó chỉ nung nấu ý định giết chết thằng Chột. Bọn thủ hạ không chỉ phá nát ô cửa sổ dẫn vào tầng hầm mà còn cho nổ tung những đoạn đường lân cận. Chắc chắn bà Đen đã không thoát khỏi bàn tay hung ác của bọn chúng. Có lần trong đêm, ý nghĩ giết thằng Chột trở lại trong đầu làm nó nghẹn đi không thở được. Nó nằm co rút, mở mắt thao láo nhìn về cánh cửa hành lang dẫn qua dãy phòng bọn thủ lãnh. Câu hỏi khủng khiếp bỗng hiện ra, vùng vẫy trong đầu như con chuột cống đang tuyệt vọng tìm lối thoát.
“Tại sao thằng Chột không giết nó?”
Tại sao nó vẫn sống sót giữa những cái chết diễn ra từng ngày, ngay bên cạnh. Nó không dám tin rằng mình sẽ tiếp tục sống sót dưới quyền cai trị tàn bạo của thằng Chột. Những lần thoát chết vừa rồi chỉ là một sự may mắn nằm trong khả năng kiềm chế của tên thủ lĩnh. Chỉ cần hắn chán kiểu dùng báng súng, đưa ngón tay lên lảy cò là sẽ có một kết cuộc đơn giản và mau chóng.
“Tại sao thằng Chột không giết nó?”
Lẽ ra nó phải hỏi cặn kẽ bà Đen những bí mật về cuộc đời thằng Chột. Dường như bà có mối liên hệ nào đấy rất thân thuộc với bố mẹ hắn. Dường như bà biết rõ gốc gác của từng đứa trẻ bị ném vào khu phố Kín. Nhưng bà Đen đã không nói cho nó biết sự thật về bố mẹ của nó. Cái nhìn lãng tránh kỳ dị của bà giờ đây lại dấy lên trong lòng nó sự hoài nghi. “Những kẻ lành lặn nào đấy.” Tất cả những đứa trẻ tật nguyền bị ném vào thành phố Kín này đều là con cái của những kẻ lành lặn bên ngoài.
Một lần, nó soi bóng xuống chậu nước, khuôn mặt thằng Chột bỗng hiện ra gớm ghiếc. Nó hoảng hốt đập tay xuống chậu nước, khuôn mặt kẻ thù ta vỡ, biến mất. Rồi lại hiện ra. Hai con mắt lành lặn mở to nhìn nó căm hận.
Từ hôm đấy nó đâm ra sợ hãi chính bộ mặt mình. Nó không thắc mắc vì sao nó mang bộ mặt giống như thằng Chột. Nó không biết rằng hai khuôn mặt giống nhau phải có mối quan hệ máu mủ gần gũi nào đó. Sự giống nhau chỉ làm nó thêm sợ hãi và thù ghét thằng Chột hơn. Ý định giết chết thằng Chột không còn là một ham muốn trả thù mà trở thành nỗi ám ảnh điên loạn.
Bên cạnh thằng Chột bao giờ cũng có đám thủ hạ trang bị súng ống bảo vệ. Từ sau chuyện bà Đen, hắn càng trở nên thận trọng và mưu mô. Nhằm lập lại trật tự trong toàn thành phố thằng Chột ngang nhiên gây áp lực với chính quyền bên ngoài đòi hỏi sự hỗ trợ tối đa. Súng ống, chất nổ, xi-măng, sắt thép, lương thực, thuốc men... được ném vào quảng trường Ngô Thì Nhậm theo yêu cầu không giới hạn của thằng Chột. Bọn lính trên tháp canh cũng nhận lệnh nã đạn xuống yểm trợ cho quân đội của băng đảng Độc Nhất. Đội trật tự của đảng được trang bị điện đàm, chia phiên canh gác nghiêm ngặt khu tiếp tế. Khắp các ngã đường đều có bọn thủ hạ ôm súng tuần tiễu. Các cánh cửa dẫn vào khu nhà hoang được đồng loạt kiểm tra lại và bít kín bằng xi-măng. Ban ngày, cả thành phố này thuộc về bọn chúng. Chỉ khi đêm đến chúng mới lui vào tử thủ trong trại.
Đêm, thằng Què nằm co quắp trên sàn nhà lắng nghe động tĩnh bên ngoài. Những tiếng động dồn dập từ phía xa vọng đến làm đám trẻ bàng hoàng thức giấc cùng những oan hồn. Bọn quỷ gào rú ghê rợn, ra sức tấn công lên tường đá. Tiếng súng từ các gác canh ì oằng bắn xuống phố Kín. Tiếng nổ làm những oan hồn thêm khích động. Bên trong trại, bọn trẻ lại dồn cả vào góc nhà, run rẩy ôm nhau. Nó vẫn nằm co ro một mình ở chỗ cũ, lặng lẽ nhớ đến bà Đen.
Bà Đen biết rõ những tiếng động ầm ĩ đấy đến từ đâu.
“Đấy là tiếng động của cuộc sống. Tiếng xe máy. Tiếng nhạc. Tiếng loa. Tiếng cười đùa.”
“Tiếng cười đùa?”
“Ở bên ngoài kia, con người ta còn có những cảm xúc khác. Sung sướng, no đủ, vui cười. Họ chỉ không biết đến hiểm hoạ nằm ngay giữa lòng thành phố. Chính quyền chỉ cho phép gọi đây là trung tâm nuôi dưỡng trẻ mồ côi.”
“Trung tâm nuôi dưỡng trẻ mồ côi?”
“Phải. Người ta hài lòng và dối lòng với cái tên đấy. Người ta đặt niềm tin vào một xã hội lành lặn không tật nguyền.”
“Lành lặn không tật nguyền.”
“Bởi thế mà đêm đêm bọn thanh niên vẫn vô tư lẻn vào tụ tập đua xe, hút xách, chơi đùa trong vùng đất cấm bao quanh phố Kín. Chúng vô tình tạo nên những tiếng động vô cùng nguy hiểm.”
Những tiếng động của bọn thanh niên ham vui dạo này tiến gần sát đến chân tường đá. Chúng ầm ĩ hơn và dồn dập hơn. Ánh sáng xanh đỏ rọi ngang dọc từng vạch, từng ô trên bầu trời. Bọn quỷ ngưng bao vây trại tập trung, chúng bị những âm thanh và luồng ánh sáng bên ngoài kéo hết về dãy tường cách ly. Cả đêm bọn chúng gào la, kêu thét kích động. Cả đêm súng từ trên cao bắn xuống từng loạt chát chúa.
Sự căng thẳng về đêm trong trại tập trung bỗng như giãn dần ra, khi áp lực bao vây của bọn quỷ bên ngoài được nới lỏng. Sự khủng bố của thằng Chột không gì kiềm nén lại trở nên tàn bạo không giới hạn. Buổi tối, hắn và bọn thủ hạ cầm đèn pin xuống tận phòng ngủ chung, săn lùng những đứa con gái nhỏ. Buổi sáng, bọn con gái bị đẩy về phòng tả tơi rách rưới. Những nòng súng đen đúa sẵn sàng nã đạn xuống đầu con cuốn chiếu nào dám ngóc lên phản kháng.
Thằng Què nằm cắn răng, cuộn chặt trên sàn nhà. Tiếng kêu khóc của đám con gái nhỏ từ dãy phòng thằng Chột vọng đến làm nó nóng ran như lên cơn sốt. Nó hoảng loạn nhớ đến bé Câm, nhớ đến cái xác trần truồng bầm dập nằm phơi nắng ở quảng trường. Giờ đây, cô bé đã thuộc về thế giới của những oan hồn. Ý nghĩ đấy làm hình ảnh của bọn quỷ bớt phần ghê sợ. Nó nghĩ về bọn quỷ như những con người bị giết oan, như lời thì thầm buồn bã của bà Đen.
“Họ là những kẻ vô tội bị giết chết mà không siêu thoát được.”
Quyết tâm tìm lại bé Câm đến trong lần đi săn chuột ở Văn Điển. Trong khu nhà ga đổ nát, nó bất ngờ đào được ổ chuột chù sáu con. Cả sáu con chuột đều mù mắt và cụt đuôi, nhưng mùi hôi của chúng lan ra tận mép cống. Chuột chù là giống cực quý. Thằng Chột thường nói, mùi hôi của máu chuột chù có khả năng ngăn cản sự tấn công của quỷ gấp mười lần chuột cống. Lẽ ra nó chỉ cần hai con là đủ, nhưng nó cẩn thận bẻ chân cả sáu con chuột, vùi chúng xuống đống rác mục. Mấy đứa trẻ gò lưng đào bới dọc trên đường sắt vẫn không hay biết gì. Tên thủ hạ ôm súng ngồi ở góc đường như ngủ gục. Buổi chiều, nó theo đội săn chuột về lại trại tập trung giao trả cái rọ tre. Lợi dụng lúc các ban đội nhốn nháo nhận phần thức ăn chiều, nó lại lẻn ra khỏi cổng trại. Thằng Chột không bao giờ điểm danh trại viên. Hắn chỉ cho kiểm tra qua loa số rọ xếp theo chiều dài mép tường. Không ai biết được có bao nhiêu trại viên trong trại tập trung. Trong thành phố này không đứa trẻ nào biết đếm.
Lần theo những bờ tường đổ, nó cố chạy thật nhanh về hướng phố Thanh Trì. Ráng chiều thấp dần qua đỉnh Linh Tiên tự. Nó vào được khu nhà ga, hớt hải tìm ô cống, nơi giấu sáu con chuột. Bóng tối nhập nhoạng làm sự tìm kiếm trở nên khó khăn. Những tiếng gào la của đám oan hồn vừa thoát khỏi giếng hoang đã lan đến tận bức tường nhà ga. Nhờ vào mùi hôi, nó tìm lại được đống rác có đánh dấu bằng một mẩu ni-lông đỏ. Sáu con chuột chù tàn tật vẫn còn thoi thóp sống bên dưới. Nó vội vã cởi hết áo quần, giấu xuống đống rác. Bốn con chuột bị đập chết thừa máu cho nó xoa kín thân mình, nhưng nó giết nốt hai con cuối cùng cẩn thận xoa kín cả kẽ chân kẽ tay.
Bóng ma đầu tiên nó nhìn thấy là một người đàn bà cắp cái thúng tre vật vờ đi lại trên đường tàu. Chị ta chỉ có một tay, khuôn mặt rách toạc một nửa, thân hình đầy những vết xây xát. Người đàn bà đi tìm cánh tay đã bị bánh xe lửa cuốn đi. Bên ngoài khuôn viên nhà ga, những bóng ma không phương hướng lơ ngơ đi trên phố. Họ mang bộ mặt hiền lành và cam chịu, khác với những tiếng kêu la hung tợn hằng đêm vẫn tràn qua bức tường trại tập trung. Áo quần họ và những tấm vải cầm trên tay mục rữa, phất phơ bay trong gió đêm. Nó đã được bà Đen dạy qua cách nhận mặt chữ, nhưng trong bóng tối, nó không sao đọc được những hàng chữ nhoè nhoẹt trên mấy tấm vải.
Nó ngập ngừng bước thử một bước về phía trước, cả toán người không ai chú ý đến. Mùi máu chuột hôi hám bay ra từ thân thể nó đẩy đám cô hồn dạt đi xa hơn. Nó càng tiến dần đến gần họ, họ càng lãng xa ra. Một bà lão lưng còng lập cập bước. Hai cánh tay khẳng khiu cố giương cao tấm vải rách “... bị cướp đất... 15 năm kêu oan...”
Nó bước lại gần bà, lẩm nhẩm đánh vần, bỗng rồi buột miệng cất tiếng gọi:
“Này bà ơi...”
Tiếng gọi của nó đột ngột vang lên giữa khu phố vắng. Đám oan hồn đang vật vờ ngủ bỗng bừng tỉnh. Họ đồng loạt lao về phía nó, những cái vuốt đen đúa chĩa ra. Những bộ mặt hiền lành cam chịu bỗng biến dạng ghê rợn. Nó hốt hoảng lùi lại. Tiếng động nơi bước chân nó không thoát khỏi sự chú ý của bà lão lưng còng. Bà ta nhe răng chồm đến, đưa hai bàn tay đầy móng vuốt quờ quạng chụp vào khoảng không. Nó nghiêng mình nấp vào cội cây sấu. Bộ vuốt bà lão phóng ngập vào thân cây cổ thụ, xé toạc một mảng vỏ lớn. Những bóng ma khác nghe tiếng động cũng xông đến bao vây cội cây, gầm gừ gào la. Nó ép sát thân mình vào lớp vỏ sần sùi, kinh hãi đối diện với cái chết tàn bạo.
Giữa lúc ấy, tiếng động ầm ĩ bên ngoài ào ạt tràn đến. Tiếng máy xe gầm rú, tiếng la hét náo nhiệt xông qua bức tường đá cao ngất ngưởng. Đám oan hồn đột ngột đổi hướng chú ý. Họ bị kích thích, cùng nhau gầm lên. Những cái bóng xiêu vẹo lao về hướng tường đá.
Nó đứng chết sững bên cội cây, miệng há hốc cho không khí mặc sức tràn vào. Qua cơn kinh khiếp nó khập khiễng lần theo đám oan hồn chạy về hướng quảng trường. Ở đấy bọn họ đã tụ tập thành dãy dài, đang cố sức cào những cái móng nhọn bò lên mặt tường. Kẻ này đạp lên đầu kẻ kia, hung hăng chòi lên. Chẳng mấy chốc lớp xác chết đã nhung nhúc dâng đến nửa chiều cao bờ tường như những khối u dị dạng. Cổ họng thằng Què thắt lại. Nó không ngờ số lượng oan hồn trong phố Kín nhiều đến như thế. Sự hung hăng liều lĩnh của họ cũng không còn giới hạn, khi bị những tiếng động ầm ĩ bên ngoài kích thích. Nếu họ tấn công kiểu này vào trại tập trung thì chỉ trong chớp mắt tất cả bọn trẻ trong trại bị hoá thành quỷ.
Súng trên trạm gác bắt đầu nã xuống đám xác chết đang trườn lên bờ tường. Một vài kẻ bên trên trúng đạn tẩm máu chuột ngã lăn xuống, đẩy khối u tuột về bên dưới. Nhưng tiếng súng lại khích động họ tràn lên hung tợn hơn. Lựu đạn ném xuống chân tường nổ từng loạt. Thằng Què bị sức ép đẩy văng vào góc tường. Ngực nó đau thốn. Hai tai ù đi.
Súng bên ngoài cũng nã về đám thanh niên đua xe. Những tiếng động náo loạn ào lên một lúc rồi lắng dần xuống. Khi đấy, nó nhận ra bé Câm trong đám xác chết vừa bị lựu đạn đánh bật ra khỏi chân tường. Tấm áo ca-rô của nó quấn quanh thân hình gầy còm hiện ra giữa vùng khói thuốc. Bé Câm vừa nhổm được dậy đã cất tiếng gào thét, giương những cái móng nhọn lao về bờ tường. Nó đứng chôn chân, sững sờ nhìn theo bộ dạng ma quỷ kinh khiếp của người bạn gái.
Buổi sáng sớm, nó trở về nhà ga tắm rửa lớp máu chuột. Không ai phát hiện ra chuyện nó biến mất trong đêm. Vẫn có những đứa trẻ đi lạc trong phố, may mắn sống sót và trở về vào buổi sáng hôm sau. Nhưng những điều kinh hoàng trong đêm diễn ra trước mắt nó đã trở thành nỗi ám ảnh ghê rợn. Sẽ không có một lực lượng nào ngăn cản được sự tấn công của những oan hồn, nếu chúng thật sự bị kích thích. Mỗi cái chết oan ức trong thành phố này là một oan hồn được tái sinh. Nó nhớ lại đám xác chết đông lúc nhúc bám trên bờ tường. Chúng sẽ đông hơn, đông hơn nữa, khi hàng loạt trẻ con khuyết tật vẫn từng ngày được thả vào phố Kín.
Thằng Què vật vã mấy đêm liền không sao ngủ được. Những tiếng gào la, tiếng nổ chát chúa bên ngoài vọng đến trại tập trung không chỉ đơn giản là những tiếng động ám ảnh. Cuộc chiến tàn khốc đang diễn ra ở giới hạn cuối cùng và phần thắng chắc chắn sẽ thuộc về quỷ. Giờ đây nó mới hiểu rõ hơn lời cảnh báo của bà Đen. Cuộc sống ban ngày của nó chẳng bao lâu nữa cũng sẽ chấm dứt. Chỉ cần tiếng động bên trong trại tập trung này đủ lớn để bọn quỷ kéo đến, những bức tường tẩm máu chuột này sẽ bị những khối u xác chết bịt kín. Đám oan hồn không sợ máu chuột như thằng Chột vẫn nghĩ, bọn chúng chỉ xa lánh mùi tanh hôi của máu chuột. Nhưng khi cơn giận dữ lên đến cao độ, chúng bất chấp tất cả. Phải có một cách nào đấy tiêu huỷ những hồn ma, không bằng vào máu chuột, không bằng vào vũ khí.
“Không bia mộ, không hương án, không giải oan thì không siêu thoát được.”
Nó nhớ đến giọng nói buồn bã của bà Đen. Bà đã không kịp nói hết với nó những điều bà biết được về thế giới bên ngoài, về nguồn gốc của những oan hồn. Họ đến từ đâu và sẽ đi về đâu? Câu hỏi của nó cứ tìm cách vượt qua bức tường đá vô tri. Nó thôi không tính đến chuyện giết chết hay lật đổ thằng Chột nữa. Nó nghĩ đến cách vượt qua bức tường thành đi tìm một lối siêu thoát.
Nó biết rõ, có một con đường hầm từ chỗ cư ngụ của bà Đen dẫn ra bên ngoài. Nhưng ô cửa sổ ở phố Văn Phú để đi vào khu nhà hầm đã bị thằng Chột lấp kín. Khu vực bên trong chắc cũng đã bị phá huỷ toàn bộ. Nhưng nhất định vẫn còn một con đường nào đấy, trong muôn ngàn con đường hầm chằng chịt bên dưới lòng thành phố, vượt qua chân tường. Ý nghĩ ghê rợn len lỏi tìm đến trong đêm làm nó toát mồ hôi lạnh. Con đường duy nhất chưa bị thằng Chột phá huỷ là con đường qua giếng hoang. Bọn thằng Chột không bao giờ dám lai vãng khu vực này.
Nó nằm mở mắt thao láo trong đêm, chờ khi trời sáng. Mặt trời lên chói chang trên đỉnh đầu, nó tách khỏi đội săn chuột, lẻn về hướng nghĩa trang Hà Đông.
Nghĩa trang là một bãi cỏ cao ngút ngàn được bao bọc bởi dãy rào sắt han gỉ, xiêu vẹo. Con đường gạch lở lói phủ đầy lá khô dẫn qua cổng chính. Mấy tấm bia mộ bám rêu xám ngắt lấp ló trong tàn lau. Nó đi len lỏi giữa những bụi cỏ dại và cây gai um tùm. Không khí nơi này thê lương buồn thảm. Mặt trời nóng rực bên trên không hong khô được lớp sương đọng trên lá và hơi lạnh đang bốc lên nghi ngút từ lòng đất. Ở cuối dãy rào sắt, nó tìm được những cái hố to. Đất sụp xuống bên dưới thành những khoảng lõm xanh thẫm cỏ dại. Nó không rõ, đấy có phải là miệng giếng hoang không. Trong trại tập trung có hơn mười cái giếng đào. Bọn trẻ lèn đá trên miệng giếng tròn vành vạnh để chống sụp đổ. Mấy cái hố đầy cỏ này chẳng ra vẻ gì là miệng giếng. Bà Đen cũng chưa bao giờ đến đây, bà chỉ có thể kể cho nó nghe những mẩu chuyện chắp vá.
“Mỗi cái giếng là một nấm mồ chôn tập thể, không bia mộ, không hương án.”
Gió lạnh thổi qua hàng rào sắt han gỉ, đưa đến những tiếng leng keng kỳ dị. Nó đứng bên miệng hố rùng mình sởn da gà. Những oan hồn chỉ tỉnh giấc vào ban đêm. Nhưng những tiếng động giữa lúc ban trưa vẫn làm nó ớn lạnh. Nó dùng dằng nghĩ đến chuyện quay về khu trại tập trung, tránh xa nơi chết chóc này.
Con chuột nhỏ từ đám cỏ chui ra, ngước cặp mắt đỏ long lanh nhìn nó. Đấy là giống chuột trắng hiếm hoi của bà Đen. Nó cúi xuống nhìn con chuột, lồng ngực thắt lại một nỗi nhớ nhung bi thảm. Hoá ra con đường thông vào khu nhà hầm của bà Đen thật sự nằm ở đây. Con chuột vẫn đứng yên lặng, cái mũi hồng hào lay động đầy thân thiện. “Chúng biết đánh hơi người quen đấy, cháu ạ.” Nó thận trọng níu bụi cây dại đu xuống bên dưới. Đáy hố sâu và lạnh lẽo, không có đường thoát. Nó sợ hãi nhận ra, trong đám cỏ dại và lá mục lổn ngổn mấy khúc xương mốc trắng. Con chuột nhỏ đã biến đi đằng nào không dấu vết. Nó lần mò quanh thành hố tìm cách bò trở lên, nhưng bờ đất mềm phủ cát chỉ nhú ra lớp cỏ ngắn lơ thơ, chẳng có thứ gì chắc chắn để bám víu. Chân nó bỗng bước hụt vào một khoảng trống, cả người như bị ai kéo tuột xuống. Nó hoảng hốt bám vào mấy bụi lau, miệng bật la lên một tiếng kinh sợ. Tiếng kêu của nó chui vào lòng đất dưới chân trôi tuột đi u u.
Đấy là một miệng hầm rộng bằng cái miệng thúng. Nó vụng về xoay người lại, quan sát. Bên trong tối đen thoảng mùi hôi khăm khẳm. Đám xương trắng chất dồn nơi miệng hầm chuyển động lọc cọc dưới chân nó, phát ra những ánh lân tinh lập loè.
Con đường hầm thoạt đầu chạy thẳng về hướng trung tâm phố, nhưng dần dà đâm ra nhiều ngõ ngách. Nó càng bò sâu vào càng thấy mất phương hướng, nhưng nó không dám nghĩ đến chuyện quay trở lại. Con đường ra đã lẫn vào những khúc quanh không dấu vết. Nó đoán lúc này trời đã về chiều. Những oan hồn khu giếng hoang sắp đến giờ thức giấc. Ý nghĩ đấy lại đẩy nó bò sâu hơn vào lòng đất. Ở nhiều đoạn đường cụt nó phải bò ngược trở ra tìm lối khác, nên cứ loanh quanh mãi. Những tiếng động mơ hồ theo vách đất thỉnh thoảng lại lan đến đầy đe doạ. Cơn khát kéo dài làm mũi nó mất dần khả năng tìm kiếm. Mùi nước giải chuột cứ lấp lửng nơi nào không định hướng được. Nó cố dỏng tai lắng nghe những tiếng chít chít thân thuộc, quờ quạng bò tới.
Trong bóng tối mù mịt, nó lọt vào một vùng không khí thoáng đãng làm nó nghĩ đến một gian phòng rộng rãi. Sờ tay lên đầu, không thấy nóc hầm, nó đứng dậy khập khiễng bước đi. Một thoáng bất ngờ, nó bỗng ngửi được mùi thức ăn ẩm mốc quen thuộc của bà Đen.
Một nửa gian hầm đã sụp đổ chỉ còn là đống gạch đá. Bàn tay nó sờ soạng men theo vách tường, không sao tìm lại được lối vào cánh cửa sắt. Nó loay hoay mãi trong gian hầm rộng cho đến khi tiếng nổ từ tầng cao đột ngột ập xuống. Gian phòng rung lên dữ dội, đất đá đổ xuống ào ào. Nó ngã lăn ra đất, lồng ngực đau thốn như bị báng súng dộng vào. Khói tràn vào hầm cay xé. Nó gượng dậy men theo vách tường tìm đường thoát. Tiếng nổ thứ hai lại hất nó ngã lăn xuống đất. Nó ngất đi trong bóng tối, giữa những tiếng nổ dữ dội và tiếng gào la kinh khiếp của đám oan hồn.
Nó tỉnh dậy trong ánh sáng mập mờ. Một lỗ thủng trên nóc hầm hắt xuống những vệt nắng lung linh. Nó đoán mình đang nằm dưới đoạn tường đá. Hơi nóng và ánh nắng xuyên qua lỗ thủng báo hiệu giờ khắc của ban ngày. Miệng và mũi nó khô cứng chứa đầy đất cát. Không gian bên trên im ắng. Chỉ cần theo lỗ thủng chui lên là nó sẽ trở lại được trại tập trung, chấm dứt cuộc tìm kiếm vô vọng. Nó chống hai khuỷu tay trầy sướt nhổm dậy. Cả người nó đau đớn như bị chặt ra từng khúc, nhiều chỗ trên da đóng máu sền sệt.
Có rất nhiều lỗ thủng thông lên mặt đất. Ở một đoạn sụp lở, nó tìm được hai cái xác người. Đấy là hai tên lính trên tháp canh trong bộ quân phục màu đen. Đầu họ đã bị quỷ cạp sạch da. Hai con mắt ứ máu lồi lên trên bộ mặt lở lói, chúng trợn tròn kinh khiếp. Cuộc tấn công tối đêm qua đã vượt qua bờ tường cao lên đến tận chòi canh, biến đám lính gác thành những xác chết. Thuốc nổ ào ạt ném xuống quảng trường đã tạo nên những lỗ thủng ăn sâu xuống tầng hầm.
Thằng Què bước ra bên ngoài giữa khung cảnh đổ nát hãi hùng. Chân tường đá nhiều đoạn bị thuốc nổ đánh sạt lở lòi cả lớp cọc thép bên trong. Mặt đất bị cày xới tung toé, vương vãi máu tươi và thân người. Những thân hình nằm sõng sượt trên đất còn thoi thóp, không ngớt rên rỉ. Nó ngỡ ngàng nhận ra vài khuôn mặt quen ở trại tập trung. Mấy bao tải lương thực bị xé nát, gạo bắp đổ ngổn ngang, bị bỏ lại trên nền gạch. Hình ảnh bất ngờ này không nằm trong dự đoán của nó. Thằng Què thận trọng đảo mắt nhìn quanh. Quảng trường vắng vẻ không một bóng người. Nó lờ mờ nghĩ đến một cuộc bạo loạn khác, vừa mới xảy ra. Bọn thủ hạ thường ôm súng rảo quanh quảng trường giờ thả lương thực lại biến mất đi đằng nào. Nó cúi xuống, đau đớn nhìn vào khuôn ngực bị bắn nát của đứa bạn trong tổ săn chuột. Những cái xác khác của bạn bè nó cũng vẫn còn nguyên vẹn da đầu, nhưng thân thể tan nát vì vũ khí.
Một tiếng nổ xé ngang màng tang đẩy nó ngã nhào xuống đống xà bần. Hai tên lính trên chòi canh lăm lăm chĩa súng xuống quảng trường. Tiếng nổ chát chúa thứ hai lại vang lên, cày xới đống gạch đá bên cạnh. Nó không kịp suy nghĩ, nhoài người nhảy xuống miệng hầm.
Lưng nó đập xuống lớp xà bần lởm chởm bên dưới, đau như gãy lìa. Bên trên, tiếng người la hét lẫn trong tiếng chân chạy rầm rập. Tiếng chửi rủa dữ dằn của thằng Chột vang lên cùng tiếng đạn lên nòng. “Tìm cho ra những thằng còn sống sót.” “Giết cho sạch bọn nổi loạn.” Nó hốt hoảng bò dậy lủi vào cuối gian hầm.
Nhờ có ánh sáng hắt qua những lỗ thủng, nó mau chóng tìm được một miệng hầm chưa bị bít hẳn. Giữa mấy cây xà gỗ chống xiên xẹo, một khoảng nhỏ tối đen bằng bàn tay hiện ra. Nó cuống cuồng bươi đống gạch đổ chung quanh, cho đến lúc miệng hầm mở to vừa đủ cho nó lách người qua.
Vòm hầm khá hẹp, gần như chỉ có thể bò đi. Nó chống cùi chỏ bò hớt hải cho đến khi lọt hẳn vào vùng tối đen. Những tiếng la hét của bọn thủ hạ bên ngoài cũng loãng dần rồi tắt hẳn.
Nó bò hết một đoạn đường dài, người càng lúc càng khô tóp lại vì thiếu nước. Có những lúc nó ngất đi rồi lại vật vờ tỉnh dậy. Ý nghĩ về một cuộc bạo loạn vừa bị dập tắt bên ngoài không trở lại lần nào trong tâm tưởng nó. Sự sợ hãi cũng biến mất. Nó chỉ khát và yếu ớt.
Hơi ẩm mông lung cứ kéo nó trườn về phía trước. Con đường hầm mở rộng dần ra, nhiều chỗ bắt đầu ẩm ướt. Nước thấm qua vách đất, rỉ rả nhỏ xuống từng giọt.
Nó nằm lả trên nền, để nước thấm từ từ qua đôi môi khô nứt, qua làn da mặt đau rát. Nước lạnh làm nó tỉnh lại dần. Áp bụng lên mặt đất sũng nước nó ngỡ ngàng lắng nghe tiếng róc rách, tiếng rì rào thoang thoảng vọng đến lẫn trong mùi nước giải chuột.
Phải mất nhiều thời gian nó mới tìm ra được nơi có tiếng nước róc rách. Đoạn đường chỗ này sáng dần ra, nó thấy được vòm vách tráng xi-măng nhẵn thín.
Nước đổ chắn ngang đoạn đường phía trước phản chiếu một vùng ánh sáng nhợt nhạt. Mùi hôi thối tanh tưởi xông lên từ đấy. Mấy con chuột cống hai bên bờ giương cặp mắt trơ tráo nhìn kẻ lạ. Ở đây có rất nhiều chuột, những con chuột béo đẫy khác hẳn những con chuột khô đói trong phố Kín. Cảm giác sung sướng hả hê khi nhìn những con chuột no đủ chợt tràn đến làm nó thấy đói. Đám chuột phóng nhanh thoăn thoắt khi vừa thấy bóng nó tiến đến gần. Chúng lẩn hết vào những khe tường hẹp phủ đầy rêu xanh. Nó đành bỏ ý định săn chuột, lần mò tìm đường ra. Ánh sáng tràn qua những lỗ thông trên nóc hầm mang theo những tiếng động náo nhiệt khác thường. Qua tấm song sắt nó nhìn thấy cả một khoảng trời xanh, nghe được cả tiếng người la lối, tiếng xe cộ rú máy ầm ầm.
Nước bên trên đổ ào ào qua lỗ thông, xối ướt khoảng vai của nó, mang theo mùi thức ăn thơm tho khác lạ. Mùi thức ăn làm nó nhớ đến một khoảng thời thơ ấu xa xăm. Nó đưa tay lên vai, lên vạt áo, lần tìm những sợi bún trắng cho vào miệng. Chỗ thức ăn mềm mại ít ỏi cũng làm bụng nó bớt cồn cào. Tiếng người í ới gọi nhau bên trên vọng xuống lỗ cống những ngôn từ xa lạ và kỳ quặc.
“Ba bát bún không mắm nhé.”
“Bàn số hai có người mới vào đấy.”
Nó sợ sệt ngồi bệt xuống lòng ống cống, cố nghĩ đến bà Đen. Mấy con chuột từ những ngóc ngách bên tường lại bò ra nhìn nó trơ tráo. Nó vẫn cứ ngồi co ro ngâm mình trong nước lạnh cho đến khi ánh nắng nhạt dần trên lỗ cống. Những tiếng động bên trên không hề nhỏ đi nhưng đã bớt phần xa lạ. Nó lom khom đứng dậy, đầu chạm vào những cọng rêu xanh lòng thòng nhỏ nước.
Nắp cống bằng song sắt, đậy rất lỏng lẻo. Nó chỉ đẩy một phát là bật ra. Cái chân què trầy trật đạp lên bờ tường, nó từ từ ngoi đầu lên. Bánh xe máy lướt qua mặt đường đẩy tung lá bụi làm nó hoảng hốt thụt xuống. Nó nấp bên dưới lỗ cống vài phút rồi lại ngoi lên. Ánh đèn màu lấp lánh rực rỡ từ muôn phía ào đến. Những con người sạch sẽ trong bộ áo quần lành lặn lướt đi trên phố. Nó lập cập chui ra khỏi lỗ cống. Thế giới lộng lẫy bên ngoài hút lấy tầm mắt nó. Tai nó ù đi, mất cả âm thanh. Chỉ còn những hình ảnh rộn rã muôn màu.
Nó đứng chết trân trên hè phố, thân hình ướt đẫm, rách rưới, bốc mùi cống thối.
Bà hàng bún là người đầu tiên phát hiện ra nó khi mang chậu nước rửa đổ xuống miệng cống. Bà trợn mắt nhìn thằng người bẩn thỉu dị dạng. Bó đũa hung hăng xỉa vào mặt nó.
“Thằng ăn mày, có cút đi ngay không.”
Nó ngơ ngác lùi lại, tìm đường chạy trốn. Người đàn bà lăm lăm nhìn đôi chân xiêu vẹo của nó. Bà ta hăm hở thét lên như lập được chiến công. Bà căm thù thét lên như niềm tin bị xúc phạm.
“Công an đâu! Gọi công an đến đây. Thằng này què.”

Berlin, 21.10.2013
(Đăng lần đầu trên Tiền Vệ với tên: Kẻ săn chuột) 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét