Lại kể tiếp câu chuyện án mạng trên đầm nuôi đỉa xảy ra hai mươi lăm năm về trước.
*** |
Buổi chiều hôm đó, ngã
ngồi xới đất cho mấy gốc trang.
Lóng rày tụi sùng lộng hành
quá ể, quỡn chút ngó lại là
thấy cây cối rau cỏ vườn mình
tiêu điều vàng vọt. Con Cụt xớn
xác đứng ngay bên lưỡi cuốc,
cứ chờ thấy con sùng trắng hếu
ễnh ra là xông vô bất kể mạng
sống. Mồ tổ cha con tham ăn.
Người khách lạ tới sau
lưng từ lúc nào mà ngã không
hay, con Cụt tham ăn cũng không hay, tới
chừng nghe thằng cha Thể la lên:
– Thích khách, thích khách.
– Quý khách vô đây
có chuyện gì?
– Làm cách nào để
đi qua đầm lầy?
Ngã không tỏ đầu đuôi,
cứ tưởng thằng này hỏi chuyện
lội bưng ve gái nên nói tránh
đi:
– Đã vô nhà bà
cháu họ chơi mấy lần rồi sao
không chịu nhớ đường?
Thằng nhỏ hỏi lại.
– Làm cách nào đi qua
đầm lầy để vào được
Đường Sơn gia trang?
Mèng ơi, hoá ra nó hỏi
đường qua trại đỉa, vậy mà
cứ nói chung chung, ai mà đoán ra.
Chưa biết thằng này tà chính ra
sao, ân oán gì mà muốn mò vô
trại đỉa. Ngã không trả lời
nó mà đi luôn vô nhà. Không
ngờ nó cũng mần thinh đi theo, không
thấy hỏi han gì thêm nữa. Trong nhà
còn bàn cờ tối hôm qua ngã bày
thế trận đánh dở chừng với
ông Tám. Ngã dồn ông Tám vô
thế cờ hiểm Ái tử
Pháo Xe phong Tốt cuộc,
vừa ra quân là động thủ liền,
cho xe càn qua sông tiến vô tử địa,
rồi dùng thế Ái tử
Pháo cho quân pháo hữu
thoái lui về sau rồi cho quân pháo tả
tấn sang hãm xe cánh tả.
Ông Tám ngồi tới nửa đêm,
bị vây trong bàn cờ không thoát
đi đâu được, đành ngửa
mặt nhìn trời than.
– Bại tướng, đành
thất thủ cầu an.
Bàn cờ còn để nguyên
đó, chưa đi hết nước cuối
cùng. Thiệt ra, ngã không bao giờ
xuống tay tàn độc hại ai mà
không chừa cho người ta một lối
thoát. Ông Tám bỏ cuộc đúng
lúc là vì biết cái nhơn tình
của ngã.
Thằng nhỏ mới bước chân
ướt chân ráo vô nhà là
nhìn lom lom bàn cờ như bị thôi
miên. Chẳng nói chẳng rằng nó
tới ngồi đúng ngay chỗ ông Tám.
Ngã tính cảnh báo nó, đừng
liều mạng nghen con, nội công non nớt
như con mà để nhập vô ván
cờ này là hộc máu như chơi.
Mà thôi, thây kệ nó, cuộc đời
này có duyên có nghiệp.
Lúc mấy con gà lục tục
kéo vô chuồng, thằng nhỏ đã
nhập vô thế trận không thoát ra
được, trên trán nó mồ hôi
đọng thành giọt. Ngã pha ấm trà
cam thảo đất, thắp ngọn đèn
dầu bên cạnh bàn cờ, rồi ngồi
xuống phía đối diện. Duyên nghiệp
tới nước này thì khó mà
gỡ nổi. Cái bóng của nó, cái
bóng của ngã từ bàn cờ toả
đi hai hướng tử sinh. Gió đồi
đêm mùa hè bỗng trở lạnh
bất thường.
Thét rồi thằng nhỏ gạt mồ
hôi trán, nó khoát tay cho con pháo
hữu của nó thoái lui một bước.
Con pháo hữu vừa lùi lại là
chiếu ngay con xe của ngã đang nằm
trong đất nó. Thằng này đa mưu
túc kế, quỷ quái khôn lường,
nó chịu lùi một bước mà
biến đổi cả thế cờ. Ngã
cũng buộc lòng rút quân, cho con xe
tiên phong của ngã thoái lui một
bước. Cầm binh trên đất người
mà thảng thốt quay đầu nhìn lại
cố hương là điều tối kỵ.
Nỗi đau tha phương chưa dứt
lệ đã thấy bên quân địch
đổi sang thế Xe phong
truy kích, dùng xa luân chiến đánh
đòn trực diện truy bức ngã liên
hồi kỳ trận. Thời gian không biết
kéo dài bao lâu, trán ngã dần
toát mồ hôi lạnh, tay chân bủn
rủn, tâm thần bấn loạn, tự mình
lạc vô cõi hoang mê hồn ngất máu
say. Quân binh trùng trùng vây bủa,
cửa phía bắc Triều
cung Mã đối, cửa phía
Nam Kim câu Pháo tấn,
cửa phía Đông Bình
phiên Tượng sát, cửa
phía Tây Tuần hà Tốt
hãm. Hồn ngất máu
say. Ôi Ngưu lang hỡi Ngưu lang. Thôi
thôi thiếp đã phụ chàng từ
đây. Một mình vùng vẫy giữa
vòng vây. Quân xanh phất cờ ào
ạt, tướng giặc đưa tay lên
đánh ra nước Tốt
cuộc cuối cùng. Ta biết
biết vận mạng ta chấm dứt ở đây,
máu nóng trào lên miệng. Mấy
cái ngón tay xanh lè của tướng
địch nhấc quân tốt lên, chuẩn
bị đánh xuống tử huyệt.
Bàn tay phải quái khách từ
từ hạ xuống, quét ngang mặt bàn.
Một trận cuồng phong ập tới, cờ
xí hai bên đổ gãy tan tành. Mấy
quân binh gỗ văng tứ tán, đứa
chết tức tưởi, đứa lăn long
lóc trên mặt đất. Thế cuộc
hung sát trong chớp mắt mà tan rã.
Ngã bị chấn động, hét lên
một tiếng rồi té xuống đất,
khí huyết nhộn nhạo tâm mạch bấn
loạn. Huyệt Can du thương tổn đau
đớn như bị chém ngang thắt lưng.
Ngã bám tay vô cạnh bàn lảo
đảo đứng lên, nhưng rồi không
gượng nổi, lại té quỵ xuống.
Máu đỏ hộc ra nửa ngụm, nửa
ngụm còn lại chạy ngược vô
huyệt Cưu vĩ náo loạn tâm can. Ngã
ôm ngực thều thào hỏi:
– Quý nhơn là ai? Tại sao
lại muốn đi qua đầm đỉa?
Thằng kia không trả lời, nó
ngồi im nhắm nghiền hai mắt, dưới
ánh đèn dầu leo lét, sắc diện
nhợt nhạt như không còn chút khí
huyết, cả thân hình run lẩy bẩy.
Hoá ra nó cũng bị trọng thương,
đang cố ngưng tụ khí lực điều
hoà kinh mạch. Tại sao nó liều mạng
tới độ không biết nội công
ngã ra sao mà dám chơi đòn
Lưỡng bại câu thương? Kẻ đâm
đầu vô tử lộ để tìm
đường sống, ắt phải có điều
gì bi thương bất tuyệt. May mà
cái tâm của nó nhơn từ, tới
giờ phút cuối còn tự mình
thoát được khỏi vòng vây,
phá huỷ thế trận, thành ra ngã
với nó không ai thiệt mạng. Chuyện
này ngã vừa cảm kích vừa thấy
mình có duyên nợ với nó, phải
hỏi căn cơ câu chuyện rồi mới
biết có ân oán gì không.
Ngã cũng ngồi xệp trên
đất, nhắm mắt điều tức. Tới
khi mở mắt ra, trời đã tối mịt,
muỗi từ đầm trai bay vô từng đàn
vo ve. Cặp mắt của thằng nhỏ sáng
rực trong bóng tối, sức trai trẻ của
nó hừng hực toả ra làm ngã
rùng mình khí huyết lại nhộn
nhạo. Ngã hít một hơi rồi hỏi
lại.
– Quý nhơn là ai? Tại sao
muốn đi qua đầm đỉa?
– Tiểu tử là Đường
Sơn Tấn Pháp con trai nối dõi của
Đường Sơn Tấn Phong. Xin tham kiến
cô cô.
Không ngờ nó dùng ngôn
ngữ võ lâm mà đối đáp
với ngã, lại còn gọi là cô
cô. Ngã tứ cố vô thân, một
mình bôn tẩu giang hồ nay bỗng dưng
có thằng nhỏ mặt mày sáng sủa
gọi là cô cô, thấy lòng cảm
khích bội phần. Câu hỏi thứ nhất
nó trả lời như vậy thì câu
thứ hai hoá ra không cần nữa. Đường
Sơn Tấn Pháp là người thừa
kế chính thức phần tài sản chôn
dấu trong nhà thuỷ tạ, nếu nó
có tìm cách quay lại gia trang âu
cũng là lẽ thường.
Bây giờ, để ngã kể
sơ qua chuyện Đường Sơn Tấn
Phong.
*
Thời nhớ lại chuyện trước
đó, hồi ngã thân tàn ma dại
phiêu dạt về đồi Thủ Đức
thì Đường Sơn Tấn Phong đã
lừng lẫy tiếng tăm trong giang hồ rồi.
Không rõ Đường Sơn tên thật
là gì, chỉ nghe nói, y xuất thân
từ Cao Nguyên, thiếu thời làm nghề
bán than. Khi y với hai bàn tay trắng làm
nên cơ nghiệp thì danh thương Đường
Sơn đại huynh cũng đã gắn bó
với cuộc đời y. Đường Sơn
đại huynh còn được giới
thương nhân gọi là Đường
tổng tiêu đầu. Những năm chiến
tranh tàn khốc, Nam Thương tiêu cục
do Đường Sơn làm tổng tiêu
đầu cũng ào ạt phất lên theo
những biến động thời cuộc. Đường
tổng tiêu đầu buôn bán vận
chuyển lương thực, thuốc men, xăng
dầu dọc suốt tuyến đường từ
Trung vô Nam. Ở Sài Gòn, bàn tay
quyền lực của họ Đường lại
thao túng hầu hết các thương cuộc
cờ bạc, vũ trường lớn nhỏ
trên đất Chợ Lớn. Tài sản,
đất đai, cơ ngơi của Nam Thương
tiêu cục như củi trên rừng, như
cỏ ven sông, phân bố dày đặc
từ Quảng Trị vô tới Sài Gòn.
Tuy nhiên, trong chốn võ lâm Nam Phần
thời đó, Đường Sơn lại
nổi tiếng là người bặt thiệp
trọng nghĩa khinh tài, kết giao rộng
rãi với đám giang hồ nghĩa hiệp
bất kể Hắc - Bạch.
Trong số bằng hữu của Đường
Sơn, người được y trọng vọng
nhất là một tay đại ma đầu
hành tung vô cùng tà độc mang
tên Mã Tiền. Mã Tiền là một
loại độc dược không màu,
không mùi, không vị, lặng lẽ
giết người trong chớp mắt. Người
mang tên Mã Tiền ngoài tài ám
độc thần sầu quỷ khốc lại là
kẻ có hành tung bí ẩn bất minh
vô định, trôi nổi nay đây mai
đó. Có lúc nghe đồn gã
xuất hiện trên đường buôn
bạch phiến từ Tam giác vàng về
Nam Vang, lại có lúc lộ mặt trong các
thương cuộc thanh trừng đẫm máu
của làng cờ bạc ở Thượng
Hải, về sau gã tới Ma Cao rồi mất
dấu một thời gian dài. Khi Mã Tiền
tái xuất giang hồ, hiện diện bên
cạnh Đường Sơn Tấn Phong trong các
thương cuộc làm ăn, những lời
đồn đãi về tên đại ma
đầu lại rộ lên như cỏ sau cơn
mưa, toàn những tin tàn khốc ghê
rợn mà không rõ thật hư. Mã
Tiền không đính chánh, sự im
lặng của gã lại làm người
ta khiếp sợ hơn.
Năm 62, Đường Sơn Tấn
Phong mua vùng đất trũng dưới chân
đồi Thủ Đức lập nhà thuỷ
tạ. Đó là khu đất trũng bị
vây giữa đồi Nông Lâm, ngã
tư Xuân Hiệp, dốc Gà Quay và dốc
Chợ Chiều. Nếu coi theo phong thuỷ, đất
Thủ Đức toạ trên khúc ruột
của con rồng chín đầu thì cái
lỗ rún là vùng đầm lầy
này đây. Âm hàn tụ hết vô
đó, phước lộc không biết bao
nhiêu nhưng hiểm hoạ thì khôn
lường. Đường Sơn vốn giỏi
thuật Âm Dương Ngũ Hành, quán
thông Đạo Dịch, y cho xây nhà
thuỷ tạ theo bát quái đồ, gồm
sáu mươi bốn phương vị, có
cửa sinh cửa tử thoát vây, có
cửa âm cửa dương hung cát, nhằm
để bảo vệ cho vùng Long Mạch.
Người bình thường muốn vô
Đường Sơn gia trang chỉ có thể
theo một con đường đắp đất
duy nhất hướng bắc, nằm trên Quái
Khôn lạnh lẽo, con đường chạy
dài theo mấy hàng cây thiết mộc
lan gầy guộc. Khẩu truyền, Đường
Sơn xem bói biết được mình
đoản mạng nên cũng lo tìm nơi
chôn cất của cải cho con cháu trong
đầm. Bốn mươi tuổi đầu y
mới sanh được thằng con trai nối
dõi, thân mẫu của nó lại qua
đời ngay sau khi khai hoa. Hôm thôi nôi
thằng nhỏ, chính tay Mã Tiền mặc
áo đạo sĩ trắng bồng thằng
quý tử đi trên con đường Quái
Khôn dẫn vô nhà thuỷ tạ, chính
tay Mã Tiền thắp nhang cầu khẩn âm
binh, gởi gắm kẻ thừa kế. Suốt ba
ngày liền, Đường Sơn gia trang treo
đèn đỏ sáng rực cả mặt
đầm. Hồi đó ngã mới về
đây, ngọn đồi này còn hoang
vu trống trải ghê lắm. Đứng trên
đồi trọc nhìn xuống thấy Đường
Sơn gia trang đèn đóm sáng loáng,
xe cộ dập dìu, hương ngói nghi
ngút, thiệt là khác xa cái không
khí u tà của đầm lầy, cái
lâm hôn ám chướng của rừng
cao su.
Cuối năm 74, Đường Sơn
gia trang bị Việt Cộng đánh mìn,
gian nhà hướng nam đổ sụp hoàn
toàn. Đường Sơn lập tức cho
xây dựng lại, nhưng nó chỉ là
phần chấp vá không liền lạc được
như xưa. Nơi bị đánh mìn đó
lại chính là tử huyệt.
Biến cố tháng 4 - 75 xảy ra sau
đó, Đường Sơn không di tản
ra nước ngoài mà ở lại thành
phố. Ngay từ những ngày đầu
chuyển giao, Đường Sơn đã có
mặt trong Uỷ ban Quân quản Sài Gòn
- Gia Định, thường xuyên xuất hiện
bên cạnh một nữ biệt động
thành mang bí danh Sáu Hận, trang tuyệt
sắc giai nhơn có thành tích tiếng
tăm lừng lẫy. Khi đó thân hữu
của Đường Sơn mới giật mình
té ngửa, hoá ra Đường Sơn
lâu nay làm kinh tài cho Mặt Trận,
nuôi dưỡng Việt Cộng nằm vùng,
nên an tâm ở lại Sài Gòn chờ
một thời cơ mới. Đường Sơn
tiêu cục không chỉ buôn bán vận
chuyển lương thực, thuốc men, xăng
dầu cho Mặt Trận mà còn tham gia điều
phối nhân lực, tiền bạc và vũ
khí. Chỉ không ngờ, chỗ là cơ
sở lớn của Mặt Trận, có công
trạng hiển hách với Cách Mạng
mà trong chiến dịch thanh trừng tư sản
mại bản, Đường Sơn vẫn bị
quy ra thành phần có tội với nhân
dân. Người ra lệnh bắt giam và
tịch thu toàn bộ tài sản của
Đường Sơn chính là Tư Trung,
kẻ sau này lên nắm chức quan tổng
đốc. Đường Sơn Tấn Phong chấm
dứt sứ mạng lịch sử của mình
bằng cách treo cổ tự ải. Trong bầu
không khí cướp bóc, khủng bố
và trả thù thời hậu chiến đó,
cái chết tức tưởi của Đường
Sơn như một tiếng kêu khốc hãi
lan đi trong chốn võ lâm và thương
trường. Những kẻ tự bại lúc
đó nghẹn ngào hiểu ra một điều,
đừng trông đợi gì vô cái
gọi là thiện chí hoà giải và
lòng nhơn đạo của bên chiến
thắng.
Ngã còn nhớ, Đường
Sơn gia trang bị bỏ hoang từ một năm,
có một đêm bỗng nhiên leo lét
ánh đèn. Tới sáng hôm sau thì
mới biết, tối hôm đó Đường
Sơn vượt ngục, ôm thằng con trai
trốn về Đường Sơn gia trang, treo cổ
tự tử trong phòng ngủ. Đó là
căn phòng treo màn nhung đỏ nhìn
ra con đường đất hướng bắc.
Thằng con trai có lẽ nằm ngủ say nên
tới sáng hôm sau nó mới phát
hiện ra xác cha. Tiếng khóc kinh hoàng
của nó tràn qua đầm lầy đánh
động âm binh, thức tỉnh dân chúng
trong vùng. Thiên hạ hốt hoảng đoán
biết có chuyện không lành, nhưng
tuyệt nhiên không ai mon men tới gần
đầm lầy. Con đường duy nhất vô
Đường Sơn gia trang đã bị họ
Đường treo bảng "Có chôn
mìn". Giữa trưa, một toán bộ
đội tới gỡ mìn tiến vô nhà
thuỷ tạ thì thằng con của Đường
Sơn đại huynh đã biến mất một
cách kỳ lạ. Không ai biết thằng
nhỏ chín mười tuổi làm cách
nào vượt qua được đầm
lầy hiểm trở để ra khỏi Đường
Sơn gia trang.
Sau khi Đường Sơn tự ải,
ngôi nhà thuỷ tạ trên đầm
lầy bị Chính phủ Lâm thời tịch
thu rồi giao lại cho mấy quan lớn. Nhưng
không một ai ở được trong ngôi
nhà oan khốc đó quá nửa năm.
Những người chủ mới tới ở
được vài tháng là gặp hoạ
bất đắc kỳ tử, chết bờ chết
bụi thê thảm không toàn thây.
Ngôi nhà vì vậy mà đổi
chủ liên tục, toàn những loại
quyền thế, toàn những loại gian tham
nghe tin đồn về của cải của Đường
Sơn mà liều mạng. Thời ban đầu,
người Cộng Sản đả kích tín
ngưỡng, nhất nhất không tin vô ma
quỷ thần thánh, nhưng dần dà rồi
hương khói toả mờ mịt Đường
Sơn gia trang. Hương khói càng dày
đặc, oan hồn càng hung linh, những cái
chết càng oái oăm kỳ dị.
Tới khi Sáu Hận, người
tình của Đường Sơn, dọn về
gia trang thì mọi chuyện ân oán tưởng
như là êm xuôi. Gia đình Sáu
Hận sống trong nhà thuỷ tạ hơn
sáu năm yên thấm không thấy
chuyện gì xảy ra, đùng một cái,
Bảy Tốt, chồng Sáu Hận bị tố
cáo tham nhũng lũng đoạn thị
trường, cố ý làm trái quy định
nhà nước gây hậu quả nghiêm
trọng. Thời đó, quan nhỏ ăn kiểu
nhỏ, quan lớn ăn kiểu lớn, có bị
phát giác thì cũng là kỷ luật
sơ sài, thuyên chuyển công tác,
không ngờ, Bảy Tốt lại bị kết
án tử hình. Sự kiện cán bộ
nhà nước, lần đầu tiên, bị
đưa vô trường bắn làm dư
luận xôn xao hả hê ghê lắm. Bởi
vì xôn xao hả hê mà không ai
chú ý tới kẻ chủ mưu. Kẻ
đứng sau vụ bắt giam và ra khởi
tố Bảy Tốt chính là quan tổng
đốc. Mấy năm sau cái chết của
Bảy Tốt, khi đất đai vùng Thủ
Đức rục rịch lên giá, căn
biệt thự bị bỏ hoang trên đầm
lầy bỗng thuộc về quan tổng. Nhưng
quan lớn là người khôn ngoan cơ
trí. Quan cho mời thầy phong thuỷ về
xem địa hình, địa lý rồi ký
lịnh cho Ủy ban nhân dân huyện Thủ
Đức thành lập trại nuôi đỉa
xuất khẩu. Máy cày trên huyện
kéo về quần thảo ba tháng trời
trên đầm, phá nát trận đồ
bát quái của Đường Sơn, đào
bốn cái hồ nuôi đỉa rộng
bát ngát tạo thế Tứ Trượng
âm hàn hung hiểm bảo vệ nhà
thuỷ tạ. Lẽ ra ở địa vị của
quan chẳng ai bỏ công lấy căn nhà
đầy oan hồn tử khí đó làm
gì, nhưng tin đồn về nơi chốn
dấu tài sản và tài liệu bí
mật của nhà Đường Sơn làm
quan động lòng.
Không chỉ quan lớn thèm thuồng
số tài sản cất dấu tại Đường
Sơn gia trang, trên giang hồ cũng lan truyền
vô số lời đồn đãi. Bọn
giang hồ thảo khấu kéo về đồi
Thủ Đức ngày càng đông, mở
quán xá quanh vùng, nhăm nhe tìm
kiếm kho tàng bí ẩn. Ai từng sống
ở Thủ Đức thời đó chắc
còn nhớ, trên đồi Nông Lâm
toàn một đám sinh viên nghèo
kiết xác, nhưng quán xá dưới
chân đồi thì mọc lên không
ngớt. Đêm đêm, bọn cao thủ
lượn lờ vây quanh đầm lầy,
nhưng không kẻ nào vượt qua được
bốn cái hồ nuôi đỉa rộng
thênh thang có đám bảo vệ dữ
dằn canh gác nghiêm ngặt. Thỉnh
thoảng, có buổi sáng sớm nghe chộn
rộn bên đó, lão Thể hớn hở
chạy đi, lúc về là hả hê
kể, đêm qua có kẻ liều mạng
vượt qua hồ đỉa, xác bị đỉa
hút cạn máu nổi bập bềnh trên
nước. Mấy cái xác vô thừa
nhận này thường được tụi
bảo vệ kéo lên, chôn sau nhà
thuỷ tạ. Hồn ma kẻ tham của lại
biến thành âm binh hung hãn canh giữ
châu báu trong đầm lầy.
Đám đỉa đói quen hút
máu người lại càng dữ tợn
thèm khát hơi người.
Quan tổng đốc tuy ở ngay trong
nhà thuỷ tạ nhưng cũng không cách
nào tìm ra kho tàng. Những hôm quan
về Đường Sơn gia trang, tiếng đập
tường, tiếng đào bới lại
vọng ra không dứt. Tuy là người
chỉ đạo công việc truy tìm kho
báu nhưng quan tổng không bao giờ dám
ngủ qua đêm trong đầm.
Khi trăng vừa lên tới hàng
tràm, khi âm binh vừa thức giấc, xe
hơi vội vã chở quan ra khỏi Đường
Sơn gia trang. Quan không đi đâu xa, cách
đó hơn năm trăm mét, ngoài
phạm vi đầm lầy có chốn lầu
xanh mang tên Đường Sơn quán.
Chuyện hầu hạ cho quan qua đêm bên
đó đã có một người
đờn bà mang tên Tứ Xuân đảm
nhận. Đó là người phụ nữ
tứ tuần đẫy đà, ngồn ngộn
xác thịt, loại tú bà đỏ
chuyên dựa thế quan quyền kinh doanh ngành
lầu xanh cao cấp. Tứ Xuân dựa thế
quan tổng đốc mở Đường Sơn
quán trong rừng cao su, ngay cạnh Đường
Sơn gia trang, phục vụ cho quan tổng cùng
các quan lớn khác từ đàng ngoài
vô. Trong đó bày đủ kiểu
dâm ô, đủ kiểu trác táng
truỵ lạc. Suốt mấy năm trời dâm
khí từ Đường Sơn quán toả
ra khỏi rừng cao su, lan trên đầm lầy
làm ô đen cả mặt nước. Đỉa
trên đầm càng hung tợn hơn. Âm
binh càng cuồng nộ hơn.
Không ai ngờ, kẻ đa mưu túc
trí như quan tổng đốc cuối cùng
cũng không thoát khỏi nghiệp chướng.
Đêm mồng bảy tháng bảy âm
lịch, khi ngã vô tới căn phòng
ngủ treo màn đỏ thì quan tổng
đốc đã là cái xác không
hồn, không quần áo. Một cái
chết thảm khốc. Nhát cuốc hung hãn
xẻ đôi xương sọ, xé toạt
cả một vùng bả vai, máu me lênh
láng.
Khi đó, trăng đã lên
cao quá khỏi hàng tràm từ lâu.
*
Lại kể tiếp chuyện thằng con trai nối dõi của Đường Sơn Tấn Phong. Buổi tối hôm đó, hai ngày trước khi quan tổng đốc bị chém chết trên giường, thì thằng con trai của Đường Sơn tìm tới ngã quyết hỏi cho ra cách đi qua trại nuôi đỉa.
Ngã biết, họ Đường
Sơn có mối oán thù không đội
trời chung với quan tổng đốc. Duyên
nghiệp éo le, hai đứa con của hai kẻ
tử thù không biết vì cớ gì
lại thành bạn thân của nhau. Câu
chuyện này quả có nhiều điều
kỳ bí bất minh, phải hỏi cho ra gà
ra vịt đã, rồi mới tính tiếp.
Ngã mới hỏi nó:
– Hồi bữa đó, làm
sao tiểu hiệp thoát khỏi Đường
Sơn gia trang?
Nó hiểu liền, "hồi bữa
đó" là hồi cách đây
hơn mười năm, hôm cha nó tự
vẫn trong nhà thuỷ tạ, nhưng nó
không nói ngay mà suy tính rất lâu,
chừng hết tiếng gà gáy, nó mới
nhìn ngã. Trong bóng đèn dầu
mà cặp mắt Đường Sơn quang
đãng không phủ sương đêm,
ngã biết, nó sẽ nói ra một
phần sự thật.
– Đêm đó còn có
một người thứ ba trong gia trang.
– Ai?
– Mã đại hiệp.
Ngã nghe tới tên Mã Tiền
bất giác sống lưng lạnh toát.
Được đăng bởi Cô Năm, vào lúc...
2 nhận xét:
Thám tử Conan:
Khoan đã, cô Năm!
"… khi ngã vô tới căn
phòng ngủ treo màn đỏ thì quan
tổng đốc đã là cái xác
không hồn… Nhát cuốc hung hãn
xẻ đôi xương sọ, xé toạt
cả một vùng bả vai, máu me lênh
láng"
Làm sao cô Năm nhìn thấy
được vết thương để biết
là do cuốc xẻ? Vậy thì, cái
xác quan tổng đốc nằm xấp hay nằm
ngửa? Theo entry "Lời quan tổng đốc",
cái xác này ngay sau khi chết đã
bị Sáu Hận lật ngửa ra. Vết
thương nằm bên dưới thân thể
người chết, kẻ đến sau không
thể nhìn thấy được. Nếu
entry Lời quan tổng đốc nói đúng
thì chỉ có hai khả năng:
-
Cô Năm có mặt ngay thời điểm gây án.
-
hoặc… chính là thủ phạm.
Cô Năm:
Thằng nhỏ Conan này không sợ
chết hay sao mà vô đây hỏi xách
mé kiểu đó? Từ từ nghe cho thủng
chuyện đã chớ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét