Tháng năm ở Đại Trại bất ngờ
xuất hiện trên văn đàn vào một ngày cuối năm dương
lịch. Không ầm ĩ, không một tín hiệu báo trước, như
những tác phẩm viết ngoài vòng kiểm duyệt khác, nó
bình thản chấp nhận một hoàn cảnh ra đời hẩm hiu và
lặng lẽ. Tác phẩm được chia làm năm đoạn đăng trên
Văn Việt. Sự chia đoạn này có thể không nằm trong ý
đồ viết một cuốn tiểu thuyết liền lạc của tác
giả. Nhưng để tiện phân tích và theo dõi, tôi xin căn
cứ vào năm phân đoạn này để trình bày.
Tháng năm ở Đại Trại là một
sự chọn lựa khốc liệt của tác giả và những nhân
vật trong truyện. Họ ở lại trên quê hương, tìm cách
tồn tại trong cuộc sống ngục tù. Tác phẩm đã không
được gửi ra những trang mạng ở Hải ngoại, để chịu
cảnh đời lưu vong (hay đi tìm tự do) thay cho người
viết. Nó ở lại, ẩn nhẫn, kiên trì chờ đợi để rồi
xuất hiện trên một trang mạng quốc nội, gửi đến
người đời một thông điệp khác biệt:
"Giá trị của một tác phẩm
nằm ở sức chịu đựng của tác giả và độc giả."
Sức chịu đựng của độc
giả trong bầu không khí thriller
Đây là tác phẩm không đọc để
mà tìm vui, để mà giải trí, để có những buổi chiều
thanh thản bên trang sách. Giọng văn buồn bã chìm trong
bầu không khí nặng nề vô vọng luôn tìm cách tấn công
người đọc, làm họ hoang mang lo nghĩ rằng: tình hình và
hoàn cảnh bi đát này sẽ không bao giờ dẫn đến một
kết cuộc tốt đẹp. Sự sợ hãi, căng thẳng và đe dọa
kéo dài suốt tác phẩm tạo nên một hiệu ứng thriller
ngột ngạt tức thở, dù tôi đoan chắc rằng, tác giả
không hề có ý định viết một câu chuyện thriller. Tác
giả chỉ muốn đẩy những nhân vật của mình vào một
trò chơi cút bắt trong bầu không khí trinh thám không có
thám tử và công lý:
"Nếu tao nhắn tin trả
lời, ngay lập tức họ nghĩ rằng tao tin điều họ nói.
Và đó là tự mình nộp mạng cho họ. Là cùng với họ
chơi trò chơi cút bắt."
"Thì tao đã nói, nghe như
chuyện trinh thám mà."
Thoạt đầu
"nghe như chuyện trinh thám", nhưng rồi không có
yếu tố trinh thám dẫn đường.
Khi Bình xuất
hiện, người ta chờ đợi Bình đóng vai thám tử, nhưng
Bình lại là một người thụ động buông xuôi hơn ai
hết. Dù cho Sơn (nhân vật) cứ tin tưởng rằng: "Mày
có những suy nghĩ sát thực tế, có thể hướng dẫn
người ta hành động. Tao cần mày lúc này là vì vậy",
thì Sơn (tác giả) vẫn không cho Bình bất kỳ cơ hội
hành động nào để chứng tỏ bản lĩnh của mình.
Hồng cũng vậy,
dù cô là một nhân vật xuất sắc của tác phẩm (nếu
không nói là nhân vật nữ sống động nhất của năm
2016). Những lời hứa hẹn ban đầu cùng cá tính quyết
đoán, bộ óc biết phân tích suy luận, cộng thêm phong
cách năng động, Hồng làm người đọc hy vọng và chờ
đợi. Nhưng Hồng được xây dựng như một yếu tố gây
bất ngờ, một nhân vật hoạt náo khuấy động bầu
không khí tù đọng của những người đàn ông nhạt nhẽo
thiếu cá tính. Hồng lại là người chủ trương sống
bằng cảm tính. "Em nghĩ
cảm tính là người hướng dẫn đáng tin cậy."
Nên Hồng nắng mưa thất thường buồn vui lẫn lộn, từ
sợ hãi chuyển qua bình thản chỉ cần vài giây, từ nước
mắt chuyển qua ráo hoảnh có đâu một tích tắc. Bất
ổn. Táo bạo. Tràn đầy nữ tính. Đáng ngại hơn nữa,
Hồng là một nữ doanh nghiệp biết cách để sống còn,
thích nghi cực tốt với những vấn đề tiêu cực của
xã hội. Hình ảnh của Hồng càng lúc càng rời xa tiêu
chí của một thám tử dẫn dắt bạn đọc đi tìm công
lý, Hồng để lộ dần tính cách khôn ngoan lọc lõi để
hướng tới một nhật vật phản diện: chấp nhận thỏa
hiệp và dễ dàng chối bỏ tự do.
Không có người dẫn đường cho
thể loại trinh thám, câu chuyện rơi vào bầu không khí
thriller mông lung (*), nó hướng đến mục tiêu đe dọa,
gây hiệu ứng sợ hãi, tra tấn tinh thần độc giả, mà
thiếu vắng hoàn toàn một kết cuộc sáng tỏ và những
người kiên quyết làm sáng tỏ một kết cuộc.
Khác hẳn
với những truyện thriller được viết bởi những nhà
văn xuất thân từ ngành luật - như John Grisham (Mỹ),
Sebastian Fitzek (Đức), Rubem Fonseca (Brazil), Ferdinand von
Schirach (Đức) ... nơi luật pháp vẫn là một phần nền
tảng cho diễn biến câu chuyện, Tháng năm ở Đại Trại
gần với dòng văn chương thriller của những nhà văn tạo
dựng tác phẩm ngoài vòng luật pháp theo một thứ công
lý tự xử án (Selbstjustiz), đề cao khả năng đấu tranh
sinh tồn của chủ thể trong một bối cảnh đen tối -
như Thomas Willmann (Đức), Deon Mayer (Nam Phi), Stieg Larsson (Thụy
Điển), Suzuki Koji (Nhật), Sidney Sheldon (Mỹ)...
Bằng một giọng kể đều đều
mệt mỏi chìm trong vùng tự sự và ký ức của một
người đàn ông trung niên, bằng một lối viết gần như
không có đối thoại của những con người không còn trẻ
nữa, tác giả đã tự loại một số người đọc ra khỏi
danh sách độc giả của mình. Người ta thường dùng chữ
"tìm đọc" để cho độc giả cái quyền lựa
chọn tác giả cho riêng mình. Nhưng theo tôi, dựa vào cách
quy chiếu về nguyên nhân đầu tiên của Descartes, chính
tác giả mới là người lựa chọn độc giả. Cũng không
phải một tác phẩm khi ra đời đã tự chọn cho mình một
lượng độc giả nhất định, mà là, khi nhà văn đặt
bút xuống trang giấy của mình anh ta đã tự chọn cho
mình một đối tượng độc giả nhất định.
Tháng năm ở Đại Trại là một
tác phẩm được viết cho một đối tượng độc giả
hạn hẹp. Về mặt nội dung, nó loại ra toàn bộ những
độc giả yên phận giun dế của thứ văn chương an toàn
lề phải, những độc giả thời kinh tế đổi mới của
thứ văn chương hiện sinh dỏm phấn son lòe loẹt hay
những độc giả Hải ngoại kiên cường chống cộng và
chống bất cứ thứ gì dính líu đến cộng... Về mặt
kỹ thuật, với lối viết mang nhiều tính tự sự dàn
trải lang man, nó loại ra đối tượng bạn đọc lười
suy nghĩ, bạn đọc trẻ ưa thích tốc độ, bạn đọc
trung thành với dòng văn học hiện thực XHCN, bạn đọc
lớn tuổi ưa thích cấu trúc và đối thoại văn chương
thuần nhất rõ ràng.
Bỏ qua một số lượng lớn độc
giả đó, Tháng năm ở Đại Trại là món quà quý giá cho
những người từ bao lâu nay vẫn chờ đợi một làn gió
mới (từ một nơi không có gió thổi qua những ô cửa
đóng kín). Cuốn tiểu thuyết không sử dụng kỹ thuật
hư cấu, hình thức ẩn dụ để đặt ra những vấn đề
tiêu cực của xã hội một cách gián tiếp như những tác
phẩm ngoài luồng khác. Tháng năm ở Đại Trại sử dụng
một giọng kể mang tính tự sự không rõ của anh
hay của tôi, của Hồng
hay của Bình, những
mẩu đối thoại nằm trong mảng tối không rõ của nhân
vật hay của tác
giả, những suy nghĩ không rõ của ý thức hay vô thức -
để vẽ ra dưới ánh sáng một bức tranh rõ nét và trần
trụi của một xã hội bị tội ác khống chế. Với cách
tạo đối trọng giữa bên tối - bên sáng này, tác giả
buộc độc giả phải đối diện trực tiếp với vấn đề
hiện tại, đặt ra cho độc giả những câu hỏi nhức
nhối:
- Trong xã hội nào suy nghĩ con
người ta bị đặt trong bóng tối?
- Trong xã hội nào tội ác thản
nhiên nằm phơi ra giữa ánh sáng ban ngày?
- Bạn đứng chỗ nào trong bối
cảnh xã hội bất thường này?
- Bạn nghĩ gì về tự do?
Sức chịu đựng của tác giả
và giá trị tự do.
"Tự do là gì? Nó có lớn
lao đến độ anh quên đi sự thiếu vắng đứa con gái
yêu thương của mình không?"
Câu hỏi thật đau lòng, khao khát
tự do của một con người có lớn hơn niềm mong ước
một sự bình yên cho người thân yêu của mình? Nhà cầm
quyền chế độ độc tài luôn biết cách thêm bớt cán
cân tình cảm này để buộc con người ta chấp nhận câm
lặng chịu đựng ngục tù. Thêm vào bên họ một cân bạo
lực, bên kia sẽ lặng lẽ bỏ ra một cân nhịn nhục.
"Ai mà không ngán bạo lực
chứ!"
Người ta im lặng không phải vì
sợ cho mình, người ta im lặng vì sợ cho người thân
yêu. Không phải chỉ vượt qua nỗi sợ là đủ sức đứng
lên. Tháng năm ở Đại Trại đặt ra một vấn đề mang
tầm vóc khác. Đánh đổi sự bình an của gia đình mình,
người thân mình để được một cái gì? Hay người ta
sẵn sàng đánh đổi tất cả những giá trị cao cả như
tự do dân chủ để mưu cầu sự bình an nhỏ nhoi cho
người thân.
Câu trả lời của người cha gần
như rõ ràng:
"hiện
giờ thì anh chỉ thiếu vắng điều duy nhất đó, và anh
sẵn sàng đánh đổi tất cả để có nó, con gái anh"
Đó là một sự thật. Chính điều
này đã giữ cho chế độ cộng sản tồn tại qua mấy
mươi năm không lay chuyển. Nếu chế độ này có thay đổi,
thì sự thay đổi đó chắc chắn phải đến từ một yếu
tố nào khác chứ không vì cái mỹ từ luôn được đề
cao: "TỰ DO". Vậy văn chương có cần sự tự do
hay không? Theo tôi, có và không. Nhà văn trong nước dù
không có tự do để sáng tác, họ vẫn có thể thành
công, rất thành công, khi viết về cái sự không tự do
của họ (Nguyễn Viện là một ví dụ tuyệt vời). Cái
quan trọng trong văn chương là biết cách đặt vấn đề
ra với xã hội, trong bất cứ hoàn cảnh sáng tác nào,
chứ không nhất thiết phải có một điều kiện sáng tác
tối ưu.
Cái giá phải trả cho tự do
trong Đại Trại là một kết cuộc bi thảm. Kết cuộc vô
hạnh này không chỉ đòi hỏi độc giả một sự chịu
đựng, nó đòi hỏi trước tiên, sức chịu đựng của
chính tác giả. Tôi không nói đến quan điểm câu khách
dễ dãi hiện nay trên văn đàn Việt, bằng vào việc cố
tình rót thêm nước mắm nước muối vào đoạn cuối.
Tôi nghĩ, kết cuộc thật của một tác phẩm là cảm
nhận tình cảm thật của tác giả vào thời điểm nỗi
ức chế vừa được giải tỏa (qua quá trình viết). Về
phương diện tư tưởng, nó mang tư tưởng quy ngã, nghĩa
là đồng hóa văn chương với bản ngã. Tư tưởng quy ngã
là một thứ tư tưởng vô quy tắc, tiềm ẩn trong suốt
quá trình viết nhưng nó bị tư tưởng duy lý trấn áp
qua các tình tiết, hành động, phát ngôn của nhân vật
hay của chính tác giả. Thường chỉ ở trong giai đoạn
cuối cùng, khi nỗi ức chế vừa được giải tỏa, trong
trạng thái thăng hoa khoái lạc(**), cảm xúc vô thức mới
đánh bại lý trí để cho ra đời một kết cuộc thường
không nằm trong chủ trương cầm bút (ban đầu và có ý
thức) của tác giả.
Đó là điều
tôi tìm cách lý giải khi bất ngờ đọc đến đoạn kết
của Tháng năm ở Đại Trại. Vì sao một tác giả bằng
phong cách sáng tác, sự lựa chọn và ý thức tự do mãnh
liệt đã viết ra một kết cuộc rất "phản tự do"?
"Tại sao phải phản kháng,
hả con? Ba hoàn toàn không biết những con đường nào đã
dẫn con đến kết cục thê thảm này. Nhưng chuyện này
là của riêng con phải không? Nó như là hơi thở của con
thì làm sao ba biết được, ngay cả khi con thở nặng
nhọc. Giống như ba có hơi thở riêng và cô Hồng có hơi
thở riêng vậy đó. Nhưng lẽ ra con không nên phản kháng
dữ dội như vậy con ơi!"
Tại sao phải
phản kháng? Lẽ ra không nên phản kháng dữ dội như vậy!
Một câu hỏi,
một câu trả lời.
Một ngọn lửa,
một bình xăng.
Đốt cháy tác
phẩm.
Sau ánh lửa
não nùng là sự thật như tro lạnh. Theo tôi, thành công
đặc biệt của tác phẩm, ở đây, chính là sự can đảm
đốt cháy tư tưởng. Nó diễn ra tự nhiên, chân thật
sau những mất mát thương tổn nên hoàn toàn không mang
tính trình diễn hay giáo điều. Nó làm người đọc bất
thần bị đánh gục cùng với nhân vật. Trong nỗi đau
bàng hoàng của bên thua cuộc, người đọc buồn bã đặt
ngược lại cho tác giả những câu hỏi. Tại sao anh phủ
nhận giá trị tự do, khi chúng ta đã cùng nhau đi qua một
đoạn đường dài tìm tự do? Trong vùng tối tăm không
ánh sáng đó chẳng phải chúng ta đã cùng nhau hy vọng
hay sao? Tại sao? Tại sao anh làm như vậy?
Tại vì, từ trong vô thức, anh
đã không còn xem tự do là lẽ sống còn. Như hàng triệu
người Việt Nam cùng thế hệ, anh tồn tại bằng vào
những giá trị hay phương tiện thầm kín
khác.
Ký ức là phương tiện
Ký ức lãng đãng khắp nơi trong
tác phẩm, trong suy nghĩ của mỗi nhân vật. Nó bắt đầu
nơi thời điểm chiến tranh chấm dứt, bằng một sự ra
đi cưỡng bức và một ngày trở về mất mát tan vỡ.
Ký
ức thật là tàn nhẫn, sao nó có thể chứa đựng nhiều
thứ buồn bã chết người như thế chứ?
Còn
sống thì anh sẽ còn nhớ mãi những gì đã xảy ra cho
anh cách đây hơn 41 năm liên quan đến chuyến đi của gia
đình anh trong cái đêm hãi hùng đó.
Một
đêm kỳ lạ, dài đăng đẵng nếu phải nhớ lại từng
chi tiết, mà cũng ngắn ngủi như một tiếng sét đánh
nếu chỉ nhớ lại hai khoảnh khắc bắt đầu và kết
thúc của nó.
Đoạn mở đầu về ký ức đẹp
như thơ làm tôi nhớ đến tác phẩm Nhịp đưa hơi thở
(Atemschaukel) của Herta Müller - Nobel văn chương 2009.
Alles, was ich habe, trage ich beim
mir.
Es war noch Krieg im Januar 1945.
Im Schrecken, dass ich mitten im Winter
wer weiß wohin zu den Russen muss, wollte mir jeder etwas geben, das
vielleicht etwas nützt, wenn es schon nichts hilft.
Tất cả những gì tôi có, tôi
mang theo bên mình.
Tháng Giêng 1945 cuộc chiến
vẫn còn đây.
Trong nỗi sợ hãi ngay giữa
mùa đông tôi sẽ bị bọn Nga bắt đến đến một nơi
nào đó đố ai biết được, mỗi người đều muốn trao
cho tôi một thứ gì, nếu như không giúp được thì cũng
có thể dùng được.
Cả hai nhân vật đều khoảng
bằng tuổi nhau, vào thời điểm hòa bình cắt lìa tuổi
hoa niên của họ. Trong nỗi hoang mang chia lìa, trong đêm
bắt đầu một tương lai đen tối, họ phải tự chuẩn
bị hành trang để ra đi. Trong mớ hành trang lỉnh kỉnh
ngày ra đi đó, điều duy nhất gã thực sự mang theo bên
mình, điều duy nhất đã giữ gã lại với cuộc sống
chính là ký ức:
"Ich weiss du kommst wieder."
"Bà biết cháu sẽ trở
về." Câu nói của người bà thân yêu mà gã không
chủ đích mang theo, đã giúp gã sống còn và trở về.
Ngày trở về, gã con trai mười
bảy tuổi đã trở thành một con người khác, những
người thân của gã cũng trở thành những con người
khác.
Nhưng ký ức đó vẫn luôn hiện ra, đeo đuổi Sơn
suốt đoạn đời còn lại:
Tôi nhớ mãi những phim cùng
xem với bà: Vùng cấm địa, Tìm chồng trong động rắn,
Mãnh lực đồng tiền, Tora, Tora!
Sau này tôi mới nhận ra tôi
đã mất một người bạn thân là bà từ biến cố cuối
tháng 3 năm 1975. Và đó là mất mát lớn nhất của đời
tôi.
Khác với Sơn, ký ức của Bình
lại là những cơn sóng ngầm lặng lẽ chết người:
Bình quyết định nhảy xuống
biển tự tử, để rồi thấy mình tỉnh dậy trong nhà
giam.
Chúng cướp hết tài sản của
tao. Nhưng tao chỉ có thể mắc sai lầm một lần thôi. Ra
tù thì tao phải là chính tao. Tao mất tất cả khi ra tù.
Nhưng tao tự nhủ sẽ làm lại từ đầu.
Ký ức của Hồng là một giai
điệu buồn:
Điệu nhạc lạ quá, buồn
quá, em chưa từng nghe bao giờ.
Hồng như còn bị giai điệu
do mình tạo ra cuốn hút, nên mất một hồi lâu mới trả
lời người thanh niên:
Tôi chỉ biết mỗi một giai
điệu này thôi, do hồi nhỏ thường nghe mẹ tôi thổi.
Đoạn 4
Tình tiết này xuất hiện "bất
thần không đúng lúc" - như nhận xét của Sơn, nó
hợp với tính cách của Hồng nhưng không hợp với hoàn
cảnh của những người đang lần mò trong trong bóng tối.
Sự lạc lõng làm Sơn (nhân vật) khó chịu: "Em vui
lắm hay sao mà đàn sáo?" Thoạt đầu tôi cũng
nghĩ vậy, đàn sáo gì lúc này. Liệu những con người
trong tận cùng nỗi đau khổ và hoang mang vẫn có thể thả
hồn vào cõi mộng mơ lãng mạn? Nhưng ký ức của Hồng
làm tôi "bất thần" nhớ đến cuốn tiểu thuyết
mà khi ở tuổi mười sáu mười bảy tôi rất yêu thích,
Cánh hoa chùm gửi của Quỳnh Dao:
- Thế ai dạy cô hát bài này.
- Mẹ tôi.
Một khoảnh khắc im lặng trống rỗng, đôi chân mày của hắn nhíu lại suy nghĩ rồi trở lại bình thường. Hắn vui vẻ cười nói:
- Tôi đã tìm được giải đáp rồi. Cô nghĩ xem phải không, mẹ cô và mẹ tôi hai người thương nhau như chị em ruột, thân thích nhau như thế thì lúc tôi được ba hay bốn tuổi gì đó, chắc mẹ cô đã dạy tôi hát nên bản nhạc đối với tôi mới quen thuộc như thế.
- Mẹ tôi.
Một khoảnh khắc im lặng trống rỗng, đôi chân mày của hắn nhíu lại suy nghĩ rồi trở lại bình thường. Hắn vui vẻ cười nói:
- Tôi đã tìm được giải đáp rồi. Cô nghĩ xem phải không, mẹ cô và mẹ tôi hai người thương nhau như chị em ruột, thân thích nhau như thế thì lúc tôi được ba hay bốn tuổi gì đó, chắc mẹ cô đã dạy tôi hát nên bản nhạc đối với tôi mới quen thuộc như thế.
Đó là khi La Hạo Hạo tìm cách
lý giải tình cảm gắn bó dành cho Ức My, cô em ruột.
Hắn không hề biết rằng từ trong chốn sâu thẳm của
con tim hắn còn lưu giữ những ký ức về người mẹ.
Một bài hát trong ký ức đã vô tình đưa họ đến gần
nhau.
Tôi vừa tìm đọc lại cuốn Cánh hoa chùm gửi, cảm
xúc bây giờ đã không còn như ngày trước. Chuyện cảm tình
trai gái không còn làm tôi xao xuyến nữa, nhưng thật bất
ngờ, tình cảm ân cần của cô Ức My dành cho bà gia nhân
Gia Gia ngớ ngẩn làm tôi rơi nước mắt:
Nhìn Gia Gia, thấy bà vẫn mặc
chiếc áo cánh mỏng, tôi không lấy làm lạ tại sao tay
chân bà lại lạnh cóng như thế. Không có ai chăm sóc áo
quần cho bà sao? Cởi chiếc áo bông đang mặc, tôi đứng
dậy khoác lên người bà, vỗ về:
- Cho Gia Gia chiếc áo này đấy, mặc đi kẻo lạnh!
Bà ngạc nhiên nhìn tôi, đưa tay nắm thân trước áo.
- Cho Gia Gia chiếc áo này đấy, mặc đi kẻo lạnh!
Bà ngạc nhiên nhìn tôi, đưa tay nắm thân trước áo.
Những bài thơ Đường, những
cánh hoa mong manh, những con thú nhỏ tật nguyền... trong
Cánh hoa chùm gửi làm tôi xúc động ngẩn ngơ. Tôi nhớ
đến mẹ tôi, nhớ những năm tháng sau chiến tranh gia
đình tôi phải rời thành phố về sống ở vùng quê
nghèo, phải vật lộn với hoàn cảnh cơ khổ. Khi ấy, mẹ
tôi vẫn thong dong viết những bài thơ Đường treo lên
cánh cửa tre cho chị em tôi học, mẹ tẩn mẩn chăm từng
con mèo con thỏ, mẹ nâng đỡ những người trong xóm còn
nghèo hơn mình, mẹ xôn xao thấp thỏm chờ đợi đóa hoa
hồng tỉ muội đầu tiên nở bên những luống khoai...
Tôi rời xa quê mang theo ký ức
làm hành trang. Ký ức đó giúp tôi vượt qua những mùa
đông lạnh lẽo nơi xứ lạ, giúp tôi bình thản tránh xa
lòng đố kỵ của người đời để mà đi tới. Nó có
vị trí rất quan trọng trong tâm hồn tôi, ở mỗi khoảnh
khắc phiền muộn, nó xuất hiện như một tác dụng sinh
lý có tính cách nâng đỡ.
Trở về với Tháng năm ở Đại
Trại, tôi cho rằng, sự xắp đặt đan xen hiện thực -
quá khứ có chủ ý của Sơn là một trong những thành
công của tác phẩm về mặt tâm lý học.
Tình dục là phương tiện hay
cứu cánh
Khác với những tác giả hiện
nay đang sử dụng yếu tố sex như là cách chứng tỏ bản
lĩnh, là một thứ thử thách quyết liệt hay là một nghệ
thuật ẩn dụ cao siêu... tác giả Sơn hoàn toàn làm chủ
ngòi bút và cảm xúc của mình. Tình dục trong Tháng năm
ở Đại Trại bị tiết giảm tối đa đến độ có
cũng như không, dù rằng, đối tượng tình dục (Hồng)
xuất hiện dày đặc trong suốt chiều dài tác phẩm. Tệ
hại hơn nữa, tác giả Sơn cho nhân vật Sơn bất lực
luôn để vấn đề tình dục bớt tổn hao bút mực. Chưa
đủ, Sơn thường xuyên mang chuyện chính trị lên giường
để biến giây phút gần gũi thành những trận cãi vã,
những lần chia tay.
"Chính trị ở đất nước
mình đã nuốt chửng mọi mặt khác của cuộc sống. Nó
hút hết cả tinh lực yêu đương của những người trung
niên như anh." (Hồng)
Thật vậy sao? Sơn phủ nhận
những suy diễn hồ đồ của Hồng: "Có vẻ như
mục đích của cô là nói cho sướng miệng và tìm cách
bịt miệng anh."
Có vẻ đúng và không đúng.
Sơn yêu Hồng hay chỉ chìm đắm
vào nhục thể cô mỗi khi cần giải cơn đói khát?
Không cần đọc hết tác phẩm, mỗi độc giả cũng vẫn
hiểu được vấn đề theo cách của mình và trong vị trí
đứng của mình. Sơn thường làm Hồng nổi điên vì:
"anh cũng chỉ đến với cô thuần túy thân xác,
như lái một chiếc xe vào một cái gara, đậu đó hồi
lâu, rồi lùi ra, đi về. Anh không buồn tìm hiểu cô nữa,
thậm chí không nghĩ cô có một chiều kích khác, một
phương diện khác."
Hồng cũng làm Sơn nổi điên khi
bảo anh là kẻ “tìm thấy sức mạnh từ khối mặc
cảm câm nín trước mọi người; không biết trút vào đâu
nên trút vào em”. Có đúng như vậy không? Những
người đàn ông sống trong chế độ này, ngoài chuyện
say sưa ngoài quán xá, chửi vu vơ những trang báo đưa
tin, chạy trốn vào giường vợ... họ còn tỏ thái độ
phản kháng nào khác, một cách sống tích cực nào khác?
Bởi vậy mà họ cần có đàn
bà, cần tình dục như một phương tiện xả bớt dồn
nén từ một tâm lý ức chế và thương tổn. Trong hoạn
nạn họ xích lại gần người đàn bà của họ hơn, thôi tranh chấp,
thôi giận hờn, thôi lý giải. Những kỷ niệm thân xác
sống lại và an ủi tâm hồn họ. Nhưng tôi tin chắc
rằng, qua cơn hoạn nạn họ sẽ lại là họ, những kẻ
luôn tìm cách trốn chạy, chối bỏ vai trò làm đàn ông
(nếu thực sự có cái vai trò này) trong một xã hội được
gọi là Đại Trại.
Hoạn nạn tuy có thể là chất
keo gắn kết tình dục, nó vẫn có một khả năng tàn phá
khác. Nó biến tình dục thành cứu cánh, là mục đích
cuối cùng để những kẻ nắm giữ quyền lực thỏa mãn
thú tính. Tình dục trong tác phẩm dù có là phương tiện
để đổi chác hay hối lộ nhân viên công quyền, là
phương tiện để côn an côn đồ đàn áp, khủng bố,
tiêu diệt tiếng nói phản kháng thì nó vẫn mang tính
chất nguyên thủy: thỏa mãn nhu cầu của kẻ chủ động.
Những yếu tố tình dục dữ dội
này chính là đỉnh cao hiện thực của tác phẩm, nó làm
tăng thêm giá trị chịu đựng của độc giả.
Tác giả không hề đi quá xa. Và
độc giả trong nỗi đau cũng có thể đồng cảm được.
Một thực tế xã hội, khi những cô giáo bị nhà cầm
quyền cưỡng bức thành những nàng Kiều phục vụ cho
tầng lớp quan lại Hồ Tôn Hiến, tình dục là một món
hàng để đổi chác và cưỡng đoạt, là mục đích cuối
cùng cho ham muốn nhục thể.
Nỗi đau trong Tháng năm ở Đại
Trại là nỗi đau của những người phụ nữ, khi những
người đàn ông của họ bị biến thành những cái bóng
vật vờ thụ động, bị quyền lực (của những người
đàn ông khác) đẩy vào trong góc tối.
Sau hơn tám mươi năm (từ 1930) kiên định lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển chế độ tư bản chủ nghĩa, người phụ nữ Việt Nam càng bị đẩy xuống sâu hơn trong lớp bùn dơ của chế độ phong kiến.Độc giả phái nữ đọc Tháng năm ở Đại Trại chắc sẽ thấy an ủi phần nào. Ít ra cũng có một tay bút nam giới viết về đàn ông một cách trung thực, viết về đàn bà bằng một sự cảm thông.
"Hồng ghét nói về chính trị, như rất nhiều phụ nữ khác."
Hoan hô Hồng!
Tình bạn là giá trị thật
thật ảo ảo
Nếu không có Bình, liệu câu
chuyện có khác đi không? Sẽ chẳng khác gì bao nhiêu.
Không có Bình thì Sơn tự lái xe đến Công an phường, tự
vô quán kêu cà phê, tự gọi điện thoại cho con, tự
phát hiện ra nước trong toilet không chảy, tự mày mò với
hàng đống câu hỏi mà không có câu trả lời... Nhưng có
Bình thì tác phẩm có thêm nhân vật, có thêm tình tiết.
Quán nhậu có thêm người khui bia. Đường phố có thêm
người xách xe chạy rong. Đàn ông Việt Nam có thêm người
"phụ vợ bán quán" và ai cũng đinh ninh rằng, nếu
không có biến cố 75 đổ ập xuống thì tương lai anh sẽ
rất huy hoàng.
Tôi thích nhân vật Bình vì tất
cả những điểm đó. Tôi thấy Bình thân quen vì Bình
giống mấy ông anh họ của tôi, hao hao như mấy ông anh
ruột của bạn tôi, những ông anh thế hệ 1950 - 1955.
Bình là một nhân vật thành công
của tác phẩm qua cách mô tả hết sức chân thật của
Sơn. Người ta tưởng có thể gặp Bình ở bất kỳ chỗ
nào trên đường phố Sài Gòn, dưới tàn lá me xanh, bên
quán cà phê vỉa hè, trong tiệm tạp hóa nhỏ phủ đầy
bụi. Bình khép kín an phận, chẳng làm phiền ai và cũng
chẳng để ai làm phiền mình. Khi bạn bè cần, Bình cũng
cố tạo ra cho bạn một hy vọng (hay một ảo ảnh) về
một người hùng đầy bản lĩnh với những câu mà Bình
nói ra chỉ nhằm mục đích đốt phong long: "Có chết
tao cũng đem Thủy ra khỏi tay bọn khốn này." Nhưng
mà thành công! Sơn thấy đỡ lo hơn, đỡ cô đơn hơn:
"Bình vì thế thành ra một kiểu mẫu người, luôn
dẫn anh đến một suy nghĩ."
Một trăm ông ngồi trong quán
nhậu, một trăm ông cụng ly, một trăm ông đều tin tưởng
rằng thằng bạn nhậu của mình là thằng đàn ông bản
lãnh hơn người, dám xả thân vì bạn, dám tiêu tới đồng
tiền cuối cùng với bạn. Nó (thằng bạn tui) thâm trầm
mà cả quyết, lặng lẽ mà chí tình... Nhất! Bạn nhậu
là số một. Bạn nhậu có (khề khà) một trăm câu sai
thì cũng phải có một câu đúng. Vợ mình (lải nhải)
một trăm câu đúng thì rõ ràng bả vẫn có một câu sai.
Trong cơn hoạn nạn kinh thiên,
bạn dám tuyên bố những câu hoành tráng, dám chở anh đi
suốt con đường bụi bặm hiểm nguy... sau đó là ngủ
khò trong một thứ tình yêu nước thiết tha sâu thẳm:
"Tóm lại, lòng yêu nước
thường được mọi người quan niệm là một cái gì rất
ồn ào, chất chứa bùng nổ, chực chờ phá hủy. Không
có lòng yêu nước thiết tha, sâu thẳm. Như Bình bạn anh
ngồi đây. Không có lòng yêu nước của một kẻ cô độc.
Như Bình bạn anh đang ngủ say đây."
Bạn có thể tấp vô bất cứ
cái quán nào, bình thản ngủ yên trong lòng yêu nước,
nhưng khi tỉnh dậy gặp tai nạn nhỏ nhặt, bạn thấy
hoang mang liền:
"Bình từ trong toilet, có
vẻ như anh ở trong đó quá lâu, nói vọng ra vẻ hoang
mang:
Nước trong toilet không chảy,
Sơn à."
Một chuyện quá khó hiểu đối
với mấy ông, "nước trong toilet không chảy".
"Khi anh bước ra, thấy
Hồng đang rảo bước đi khắp nơi trong nhà vặn mở tất
cả thiết bị nước ở chậu rửa bếp, lavabo, bồn tắm
trong toilet thứ hai, chỉ đế thấy sự khô kiệt đang
hiện diện trong các đường ống, thậm chí một vài chỗ
rò rỉ những giọt nước hình giọt lệ thường ngày
cũng không còn nữa. Rồi cô quì mọp gần như nằm hẳn
xuống nền nơi góc nhà, chỗ có cái đồng hồ nước,
lật nắp đồng hồ nhìn chăm chú hồi lâu, rồi ngước
lên nói lớn, Đồng hồ nước ngừng chạy rồi. Cô đứng
dậy nhanh, vẻ mặt bình tĩnh, dường như nhận ra điều
gì. Nước bị cúp hoàn toàn."
À thì ra là vậy. Nước trong
toilet không chảy vì nước đã bị cúp. Một vấn đề kỹ
thuật hình sự phức tạp, một chuyên án khủng bố trầm
trọng như vậy chỉ có thám tử đàn bà mới khám phá
ra.
Nữ thám tử bất đắc dĩ tuy
"là đồ ngu ngốc, biết một mà không biết mười,
kiến thức chắp vá, vụn vặt, không có hệ thống gì",
"rất khó thuyết phục cô. Vì cô dễ dàng nhảy từ
cái mâm phạm trù hay khái niệm này qua cái mâm khác bất
chấp anh lắc đầu không hiểu vì sao cô suy luận theo
kiểu đó", "hiện nguyên hình là một phụ nữ
sinh ra để được yêu chiều và thỏa mãn"... thì
cũng có một giá trị nào đó trong cơn hoạn nạn, như
một cái phao cấp cứu nhỏ xíu cho hai người đàn ông
dũng mãnh bám vào:
"Anh và Bình ngồi lặng
lẽ, không nói gì với nhau, như thể cùng chờ đón Hồng
quay lại, với một giải pháp nào đó cho sự bế tắc
hai ngày nay."
Trái ngược với người bạn
chung thủy chung tình dám đi với anh cùng trời cuối đất,
người phụ nữ mà anh luôn chê bai bình phẩm đó đã dám
bỏ anh, phụ tình anh để làm cái chuyện động trời:
cống nạp thân thể đổi lấy tự do cho con gái anh.
Đau.
Cứ thủng thỉnh kể chuyện như
vậy mà Sơn vẽ ra một xã hội Việt Nam trong mối quan hệ
nam nữ vô phương thay đổi. Cái hay của Sơn là chỗ đó,
không phân tích, không lý giải. Biến cố 75 đổ ập
xuống thì sao? Những người phụ nữ thế hệ 1950 cũng
vẫn phải tồn tại, hai chân bước đi trên đất, kiên
cường mang vác cả một gia đình (và cả những người
đàn ông có một quá khứ huy hoàng).
Tình phụ tử làm nên tác phẩm
Bằng một cảm xúc tinh tế, Sơn
đưa người đọc đi suốt đoạn đường dài tìm con.
Hình ảnh người cha trong cảnh gà trống nuôi con được
ngòi bút của Sơn miêu tả chân thật đến độ gần như
hoàn hảo. Ngay từ những trang đầu, người đọc có thể
ngỡ ngàng về hình ảnh một người đàn ông ngơ ngác
lúng túng gần như không biết gì về con gái mình, dù nó
sống chung với anh trong một căn hộ hai phòng. Anh đang
chuẩn bị đi xa với người yêu, một chuyến đi có thể
là mãi mãi, để lại đứa con đã đủ lớn khôn và sống
độc lập. Bỗng nhiên rồi đứa con bị bắt.
Những cố gắng tìm hiểu muộn
màng về đời sống của con gái, từng bước từng bước,
thật là cảm động: "Khi mở tủ quần áo của
con, nước mắt anh bất chợt ứa ra. Không có nhiều màu
sắc sặc sỡ đập vào mắt anh. Không có cái áo nào có
hoa hay các mẫu pattern mỹ thuật nào. Tất cả đều trơn
tuyền, màu lạnh, màu dịu."
Những mẩu đối thoại rời rạc
của một người cha tưởng là lơ ngơ không ăn nhập đâu
vào đâu lại làm người đọc muốn rơi nước mắt, vì
nó giản dị và yêu thương quá.
Con có bị đánh đập gì không?
Con bị xô đẩy lên xe, bị bẻ ngoặt
tay, và có ai đó kéo tóc con.
Hiện giờ con có đau đớn chỗ nào
không?
Có vẻ như không. Chắc chỉ khi nào nằm
xuống thì mới biết.
Con đang ngồi?
Dạ.
Con xin nằm một chút được không?
Không sao, ba. Con chưa có nhu cầu đó.
Con đang mặc quần áo gì? – Anh bất
giác hỏi, và sau này anh nhận ra đó là lần đầu tiên
anh để ý đến chuyện ăn mặc của con gái.
Quần jeans và áo pull trắng.
Nếu tôi bị bắt, chắc ba tôi
cũng sẽ hỏi những câu lơ ngơ như vậy. Nếu bạn bị
bắt, ba bạn cũng sẽ hỏi những câu lơ ngơ như vậy.
Bởi vì đây là câu chuyện đời
thực, không phải là câu chuyện trinh thám. Người cha
Việt Nam sẽ không hỏi những câu đại loại như một
thám tử (Mỹ) truy tìm tung tích: "Từ chỗ con bị
bắt, xe chạy về hướng nào?" "Có qua cây cầu
cái chợ nào không?" "Nhà giam có đặc điểm gì?"
Không. Anh sẽ không đột nhập vào trại giam để cứu
con, anh sẽ không đưa con chạy trốn trên những con đường
đầy nguy hiểm, anh sẽ không truy sát kẻ thù, anh sẽ
không trưng ra một loạt bằng chứng đưa tội ác ra ánh
sáng. Bởi vì văn học Việt Nam trong tình hình xã hội hiện nay hoàn toàn không có cơ
hội cho ra đời một tác phẩm như vậy. Bởi vì thoát ra
khỏi "tiểu trại" thì trốn vào đâu trong "đại
trại".
Anh chỉ lặng lẽ nuốt nước
mắt, cố kéo dài những giây phút bên con, và hỏi những
câu:
Con có sao không? Con sẽ ngủ ở
đâu? Con ăn uống, vệ sinh thế nào? Con có đang bị tobe
không?
Câu hỏi cuối cùng là câu hỏi
của một người mẹ. Ngòi bút tinh tế của Sơn, câu hỏi
giản dị của Sơn, đã làm độc giả hình dung ra cảnh
gà trống nuôi con suốt bao năm trường, hình dung ra tình
cảm của một người vừa làm cha vừa làm mẹ.
"Anh nhớ một lần anh ngồi
thật lâu trong phòng ngủ của con, lần đó nó bị bệnh
nằm mấy ngày. Khi đứa em gái anh săn sóc nó xong, giao
việc lại cho anh, anh mới nhìn rõ khuôn mặt nó, khuôn
mặt dĩ nhiên có nhiều nét giống mẹ nó, nhất là cái
mũi nhỏ thanh tú, và đôi lông mày xa nhau. Anh sờ tay lên
trán nó. Anh nắm tay nó. Anh giữ khuôn mặt nó trong tay,
nâng đầu nó lên, cho nó hớp nước. Nhưng tuyệt nhiên
không nói gì. Hình như nếu nói bất cứ điều gì ra thì
một trong hai người sẽ bật khóc. Vì mỗi người đều
có chung một chất chứa không bao giờ dám thổ lộ, không
bao giờ dám đối mặt: những kỷ niệm về một người
đàn bà."
Bởi vì vậy mà Sơn nhẫn nhục
biết kiềm chế khi đứng trước tai họa của con gái.
Tình mẫu tử sâu thẳm giữ Sơn lại ở những suy nghĩ
mang tính lý trí hơn là hành vi bạo động hay tiêu cực
mà loại đàn ông thất thế thường mắc phải. Không có
một người đàn bà chống lưng, Sơn không có dịp đập
phá, say sưa, chửi bới... hay tuôn ra những câu thề thốt
văng mạng.
"SAU MỘT ĐÊM SUY NGHĨ, anh
quyết định không nhờ vả ai cả, tự anh sẽ làm hết
sức mình để giải thoát cho con gái."
Chuyện anh làm thật ra cũng lơ
ngơ như những câu anh hỏi, nhưng đó vẫn là những cố
gắng đáng trân trọng. Gửi đơn lên Ủy ban phường và
Công an quận, viết một thông báo đăng báo mà chẳng có
báo nào đăng, đến trường học gặp ông thầy giáo của
con, chở bao áo quần của con đi khắp thành phố...
Từng bước đầy cố gắng, anh
mở dần cánh cửa bước vào đời sống riêng tư của cô
con gái, khi mà một người đàn ông từng ở vai trò người
mẹ đã không đảm đương nổi. Nhưng rồi anh cũng không
thể hiểu nhiều về Thủy. Khoảng cách giữa hai thế hệ
quá lớn, vết thương giữa chiến tranh và hòa bình quá
sâu. Anh và thế hệ của anh đã chối bỏ xã hội hiện
tại, tìm cách lùi vào quá khứ (dù cái quá khứ mỏng
tanh đó chẳng đủ chỗ cho anh dung thân). Khi đó, Thủy
và bạn bè mình vẫn tiếp tục sống với ngày hôm nay và
họ chỉ có hai sự lựa chọn: chấp nhận mọi bất công
để đổi lấy sự bình yên hay dấn thân vào sự không
bình yên để lãnh lấy đòn thù của sự bất công.
Thủy là một trong số rất ít
người trẻ tuổi có sự lựa chọn thứ hai. Anh hiểu
Thủy nhưng anh không tán đồng sự lựa chọn của con vì
một lẽ rất bình thường mà bất kỳ người cha người
mẹ nào cũng phản ứng như vậy. Đó là sự sợ hãi.
Người ta có thể không sợ cho chính bản thân mình, nhưng
người ta luôn sợ hãi cho cuộc sống và tương lai của
con cái. Sơn mang nỗi sợ theo mình trong suốt quá trình đi
tìm con, mà không biết tìm ở đâu, từ mấy cái quán bên
đường, ra đến công an phường, vào tận trường đại
học... loanh quanh trong thành phố quen mà lạ.
"Biến cố của Thủy khiến
anh biến thành một người khác từ hai ngày nay, và anh
nhận thấy một tâm thức, một bản ngã khác của anh
từng phút, từng giờ thức dậy trong anh." Con
người khác đó từ từ chui ra khỏi vỏ ốc, mạnh mẽ
hơn, thực tế hơn. Nhưng cuộc lột xác không phải là
không đau đớn. Quá trình thay đổi diễn ra đồng thời vời
sự tự dằn vặt, tự buộc tội mình: "Anh có thể
di truyền dòng máu phản kháng, nổi loạn kiểu gì đó
cho con gái anh không?" Câu trả lời của tác phẩm
là không. Sự phản kháng của Thủy là một hành động
có ý thức, "một thái độ trí thức được hun
đúc thành hành động chính trị theo thời gian".
Sơn thực sự không có dòng máu
phản kháng nổi loạn như anh tự buộc tội trong lúc quẫn
trí. Tác giả chủ ý xây dựng nhân vật Sơn vốn dĩ
không can đảm gì và cũng không có một cá tính bạo liệt
nào. Sơn (cũng như Bình) là hình ảnh chung chung của những
người đàn ông miền Nam thế hệ 1950 - 1955. Ở tuổi đôi
mươi, họ thụ động bước vào cuộc chiến rồi nhanh
chóng thấy mình bị ném vào bên thua cuộc. Họ là một
thế hệ mang tâm lý khác biệt vì ngay thời điểm lịch
sử 1975, họ đã không thể xác định được vị trí
đứng của chính mình: thuộc về quá khứ hay hiện tại.
Họ chọn sự im lặng, lẩn tránh cuộc sống hơn là lên
tiếng, trừ một vài ví dụ ít ỏi (và cũng viết rất
ít) như Nguyễn Đặng Mừng (1953), Ngô Đình Châu (1952).
Hành động phản kháng chính trị
mà Sơn từng có đã cách đây gần bốn mươi năm là tham
gia những cuộc biểu tình của Phật giáo, là một trong
những học sinh chuyên tổ chức bãi khóa, đem về nhà
hàng đống truyền đơn, tài liệu chống đối chính
quyền... Nhưng chuyện này hoàn toàn không nói lên lòng
can đảm hay máu nổi loạn, vì anh cũng chỉ tham gia nửa
chừng và trong giới hạn bị lôi kéo "thấy ai làm gì
anh làm theo", tuyệt đối không từ một nhận thức
chính trị rõ ràng (chưa nói đến quyết liệt). Nhận
thức chính trị lơ mơ của anh dường như cũng không thay
đổi gì theo thời gian, nó dừng ở mức quan sát hiện
tượng hơn là đào sâu bản chất. Cách đây gần bốn
mươi năm anh tin rằng: "ông thầy dạy triết, người
cầm đầu, người cộng sản nằm vùng trong trường học
mà sau này anh mới biết" là một nhân vật rất
quan trọng có những ý kiến tối hậu, thì bây giờ anh
cũng vẫn tin như vậy, ông thầy dạy triết của Thủy là
kẻ nắm quyền sinh sát trong tay. Tôi không nói đến những
cái vỏ chanh nằm vùng sau 1975 lần lượt bị ném vào sọt
rác, tôi thấy ái ngại cho suy nghĩ của Sơn. Liệu một
tên an ninh chỉ điểm trong học đường, một tên mật vụ
cấp hạ tầng cơ sở có đủ là một hình tượng để
diễn tả toàn bộ guồng máy cai trị tinh vi và kiên cố,
từ một chủ thuyết độc đảng, từ một thể chế độc
tài.
Nghệ thuật là hồn ai nấy
giữ
Tôi nói ra đây những điều tôi
thích còn tác giả viết những điều anh ấy thích.
Về nghệ thuật đặt tên tác
phẩm, Sơn là cao thủ. Tháng năm ở Đại Trại mê
hoặc tôi ngay từ cái nhìn đầu tiên. Nó kỳ vĩ, bí ẩn
và gợi nên cảm giác về một vùng không gian khác lạ
của thể loại dã sử hay kiếm hiệp. Đại Trại nằm ở
đâu, bình nguyên, trung nguyên hay thảo nguyên?
Đó là cách đặt tên mà người
đọc phải đi vào tác phẩm mới hiểu được, và dĩ
nhiên mỗi người hiểu theo cách đọc của mình. Cũng
giống như Atemschaukel của Herta Müller. Nếu có mười
người dịch Atemschaukel ra tiếng Việt thì chắc chắn nó
sẽ có gần mười cái tên. Dù chưa có một bản dịch
tiếng Việt hoàn chỉnh, nhưng những cái tên Việt hiện
có của nó đã rất phong phú và thú vị: Xích đu hơi thở
(Thái Kim Lan - Da Màu), Tôi tự mang theo những gì tôi có
(Lê Thị Huệ - Gió O), Hơi thở đong đưa (Nguyễn thị
Hải Hà - Da Màu), Nhịp thở chập chờn (Nguyễn Mạnh
Trinh - VOA), Hơi thở nhịp nhàng (Hạnh Phương -
vietnamnet), Đong đưa nhịp thở (Ngô Nguyên Dũng - Da Màu),
Rung rinh hơi thở (Marcus)... Chỉ có một từ mà dịch ra
biết bao cái tên. Nhưng ý nghĩa của nó, bản thân tôi
phải đọc qua tác phẩm mới hiểu và cảm được: "Ich
halte die Balance, die Herzschaufel wird zur Schaukel in meiner Hand,
wie die Atemschaukel in der Brust." Tôi giữ thăng bằng
nhờ vào cái xẻng hình quả tim đưa đẩy trong tay, giống
như là cách đong đưa nhịp thở trong lồng ngực.
Không biết, người ta sẽ phải
dịch Tháng năm ở Đại Trại ra tiếng nước ngoài ra
sao.
Tôi hiểu nó như một câu chuyện
tiếp nối sau khi tháng Tư kết thúc, những dấu ấn của
quá khứ khép lại khi cánh của một trại tù vĩ đại mở
ra. Và khi hiểu được như vậy, cái tên Đại Trại đã
không còn thơ mộng hoang dã nữa. Nó u tối, buồn bã và
không lối thoát. Tự điều này đã tạo nên một cảm
giác mất mát. Với 5 đường kiếm (trác tuyệt), tác giả
đã đả thương người đọc rồi.
"Tháng năm ở Đại Trại"
nên thơ và êm ái như một câu ngũ ngôn, nhờ vào hai chữ
"tháng năm". Tại sao không là năm tháng mà là
tháng năm. Tháng năm thì dài miên man vô tận. Còn tháng
Năm là một dấu mốc.
Nghệ thuật Dòng ý thức
(Bewusstseinsstrom) là một thử nghiệm thú vị khác của tác
phẩm. Dù là một độc giả luôn chạy trốn các tác phẩm
thuộc thể loại này, nhưng đọc Tháng năm ở Đại Trại
tôi thấy mình đủ sức chịu đựng. Có thể vì tác phẩm
không quá dài và ranh giới của hai bờ quá khứ - hiện
tại khá rõ ràng (1975). Ở một số chương, câu chuyện
hoàn toàn không có đối thoại, nó như một dòng sông
miên man chảy đem theo những liên tưởng, suy tư, hồi ức,
nội tâm tính bản ngã... qua một giọng kể mang tính tự
sự không rõ của anh hay của tôi, không rõ của
tác giả hay của nhân vật,
không rõ đã biểu hiện ra bên ngoài hay còn nằm trong suy
tưởng, không rõ là đối thoại ngoại diện hay đối
thoại tâm thức... Độc giả vô tình bị cuốn vào dòng
chảy để thấy gần gũi và dễ cảm thông với tư tưởng
của tác giả hơn, đôi lúc độc giả còn vô tình tự
đặt mình vào vị trí của nhân vật và hoàn toàn chấp
nhận những hành động của anh ta. Thử nghiệm này rất
rõ nét ở đoạn 1, không hiểu vì sao đến đoạn 2 thì
mất dần đi. Những câu đối thoại rõ ràng có dấu :
dấu "" bắt đầu xuất hiện. Ở đoạn 3 trở về
sau, cường độ xuất hiện của đối thoại trực tiếp
tăng dần lên, mạch truyện trở nên rõ ràng khúc chiết.
Có thể đây là thử nghiệm khác của tác giả, nhưng tôi
thấy tiếc.
Kết cuộc là gu của mỗi
người
Tôi thích một kết cuộc mở,
thích những tình tiết và tư tưởng thể hiện kín đáo
một chút (một chút thôi) như cách tác giả tạo dựng
nhân vật Bình. Sự kín đáo của tác phẩm mở ra cho
người đọc khoảng không gian nho nhỏ để tự suy diễn.
Những khoảng không gian bất ngờ này thú vị như một
khoảnh khắc bất chợt nhấp ngụm cà phê và ăn một
miếng bánh ngọt. Người ta dừng lại một chút để nghỉ
ngơi và thưởng thức. Bởi vậy mà, dù tôi yêu thích
thriller lại rất không ưa truyện trinh thám (krimi). Những
cái kết cuộc rõ ràng mang tính lý giải (huỵch toẹt)
thường lấy mất của tôi khoảng không gian suy tư mơ
mộng. Sau khi gấp một cuốn sách lại tôi thích ngẩn ngơ
một lúc nhìn ra cửa sổ hơn là khoan khoái đứng dậy
(vì đã biết rõ thằng thủ phạm là ai). Nó cũng giống
như đi xem phim trong rạp vậy, sau một cuốn phim hay, khán
giả không xô ghế đứng ngay dậy chen chúc nhau ra về,
người ta ngồi bất động nhìn vào màn hình, nghe lòng
mình hoang mang xao động. Zorn der Engel (Rage of Angels)
của Sidney Shelden là một ví dụ của thriller với những
khoảng không gian trống và một kết cuộc mở. Tôi đọc
nó rồi một tháng sau, một năm sau nhìn ra cửa sổ vẫn
thấy lòng mình còn ngẩn ngơ ngậm ngùi.
Tháng năm ở Đại Trại có một
kết cuộc dữ dội và tàn khốc. Nhưng tôi thấy hơi phản
cảm một chút, vì kết cuộc này nhắm thẳng thừng vào
ông thầy dạy triết. Ở khía cạnh giáo dục, việc diễn
tả hành vi ông thầy dạy triết hiếp dâm tư tưởng
nhiều thế hệ học trò thì có tính phổ quát hơn là
diễn tả trực tiếp hành động hiếp dâm thể xác học
trò (Thủy) hay dùng quyền lực để ép buộc sự hối lộ
thể xác của đối tượng theo đuổi (Hồng). Sự kín đáo
duy nhất ở đây là chừa cho độc giả một khoảng trống
nhỏ tự tìm ra thủ phạm. Tôi tìm ra ngay thôi (mũi tôi
rất thính, nghe mùi dầu thơm là hắt xì liền). Đó là
khoảnh khắc thú vị mà tôi phải cảm ơn tác giả, vì
ít ra tôi - trong tư thế độc giả - cũng có làm việc
đôi chút chứ không hoàn toàn thụ động.
Về mặt nghệ thuật và tư
tưởng, kết cuộc của Tháng năm ở Đại Trại thành
công vì một màn action chung cuộc, vì tiếng thét phẫn nộ
không còn gì kiềm hãm được đã bật ra, vì một cuộc
chiến dùng dao đấu lại dao - vạch mặt kẻ chủ mưu. Nó
làm độc giả ôm vết thương lặng lẽ ứa nước mắt.
Tháng Mười hai đọc Tháng năm ở
Đại Trại, bên ngoài trời đông giá. Tháng Giêng, tháng
Hai trời vẫn còn rét buốt. Nhưng mùa xuân rồi sẽ đến.
Tháng Năm, khi hoa anh đào nở rộ dọc bên bờ sông buông
những trận mưa hoa trắng xóa đất trời, nắng ấm sẽ
tràn về, vạn vật thực sự đổi thay.
Berlin, 01. 2017
Chú thích:
*Không chỉ độc giả hiện đang
lúng túng trước ba khái niệm: krimi - thriller - horror, các
nhà nghiên cứu phê bình hay dịch giả Việt Nam cũng trộn
lẫn lung tung ba khái niệm này. Các bạn có thể xem sơ
qua khái niệm krimi (trinh thám) và thriller (truyện gay cấn):
http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/tnh-phan-dong-cua-truyen-ngan/
Rất tiếc, đây là một phân
tích sơ sài không đầy đủ về thriller trong bối cảnh
một bài phỏng vấn thiên về đặc tính của truyện
ngắn. Trong văn chương, thriller gần gũi với krimi, nhưng
trong điện ảnh thriller rất gần với horror. Có lẽ, điều
này làm người Việt hay dịch thriller thành truyện kinh
dị.
Bao giờ có thời gian, tôi sẽ có
bài viết rõ ràng hơn về ba khái niệm: krimi - thriller -
horror. Nhưng trước mắt tôi rất khó thu xếp được thời
gian. Ai có thừa khả năng? Làm ơn giúp định nghĩa lại
ba khái niệm này.
** Theo Nguyên tắc khoái lạc của
Freund (Psychoanalyse) và Aristoteles
(Nikomachischen Ethik): Khoái lạc là bổ túc bình thường
của một hoạt động đã đạt được mục đích của
nó.
Giới thiệu:
Bạn có thể đọc tác phẩm ở đây:
http://vanviet.info/van/thng-nam-o-dai-trai-ky-1-3/
http://vandoanviet.blogspot.de/search/label/Mai%20S%C6%A1n
Giới thiệu:
Bạn có thể đọc tác phẩm ở đây:
http://vanviet.info/van/thng-nam-o-dai-trai-ky-1-3/
http://vandoanviet.blogspot.de/search/label/Mai%20S%C6%A1n
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét