Trại dưỡng lão Abensberg SH nằm
giữa vùng núi đồi cạnh biên giới Tiệp. Nó hoàn toàn
không có tên trên bản đồ hay trong danh sách những viện
dưỡng lão của miền Đông Âu.
Thám tử Bartmann chỉ vào một
chấm đỏ trên màn hình:
"Đây là tọa độ do máy
định vị của chúng tôi ghi lại. Từ trung tâm vùng đồi
núi Breitenbrunn, đi về hướng đông, mười tám cây số.
Có khoảng mười người già bị bỏ quên trong cái xó
xỉnh này."
Tôi gõ lên bàn phím, thu hẹp
biên độ tìm kiếm của satellit, chỉ thấy núi rừng
trùng điệp xanh um. Thám tử Bartmann di chuyển con trỏ
trên màn hình:
"Đây. Con đường lộ này,
rời khỏi Breitenbrunn, đi về hướng Ehrenzipfel khoảng 10
cây số. Sau đó rẽ vào đường rừng. Máy định vị
thông thường cũng không thể chỉ rõ ràng, bởi vì anh
không có địa chỉ cụ thể. Người dân quanh vùng cũng
không biết gì về trại dưỡng lão mang tên Abensberg SH."
Tôi nhìn lên màn hình xanh um, lắc
đầu hoài nghi:
"Nhưng anh tin chắc người
đàn ông ở đó đúng là người tôi tìm kiếm?"
"Không. Tôi không tin chắc.
Nghề nghiệp của tôi không cho phép mình tin chắc vào bất
cứ điều gì. Nhưng tôi đã lấy được chữ viết và
chữ ký của ông ta và đem đi giảo tự. Chúng trùng khớp
với chữ viết và chữ ký trên lá thư gửi cho mẹ ông."
Đó là lá thư mà John gửi cho
Moni hai tuần trước khi bà ấy chết.
"Tôi là kẻ bị lãnh án
tù cách đây mười ba năm. Bây giờ tôi được thả ra,
nhưng tôi mất hết. Thật là bất công. Thằng nhỏ đó
đã đến tuổi trưởng thành, nó cần biết sự thật.
Đúng không? Hoặc là tôi nói với nó. Hoặc là tôi nói
với bà. Hãy lựa chọn đi. Giữa tháng 11 tôi sẽ lên
Berlin gặp nó. Tiền vé xe lửa cũng phải tính luôn vô
hóa đơn.
Freiburg, 25 tháng 10 1993
GJ"
Bức thư viết tay từ hơn hai
mươi năm trước. Nó bị giam trong két sắt của ngân hàng
cùng với số nữ trang quý giá của Moni để lại. Hai
mươi năm nay, chưa bao giờ tôi đủ can đảm để mở
cánh cửa quá khứ, đọc kỹ lại lá thư. Lẽ ra
mảnh giấy ố vàng này sẽ nằm mãi trong góc tối tăm
cho tới ngày tôi chết, nếu như Vi không xuất hiện.
Bartmann quan sát khuôn mặt tôi,
thận trọng nói tiếp:
"Tôi đã chụp hình ông ta và
cho kiểm tra lại bằng chương trình nhận dạng. Khuôn mặt người đàn ông
tên Bernhart Dauner ngày nay trùng khớp với khuôn mặt của
John Gellert cách đây hơn ba mươi năm ở tòa án
Baden-Württemberg."
Tôi nhắm mắt lại. Trong ký ức
của tôi, khuôn mặt gã đàn ông đó chưa bao giờ hiện
ra rõ ràng. Bao giờ gã cũng nấp trong bóng tối và tung ra
những cú đấm độc địa. Tôi giấu bàn tay run rẩy dưới
gầm bàn, cố bình thản hỏi Bergmann:
"Lão ta... lão ta ẩn nấp
trong trại dưỡng lão đó, dưới một cái tên khác. Theo
lá thư này, sau khi mãn hạn tù, lão đã về lại
Freiburg."
"Người nhân viên có thâm
niên cao nhất còn làm trong viện dưỡng lão là bà nấu
bếp. Bà ta biết rõ quá khứ của từng người bị giam ở
đây. Phải nói thật, đây không phải là trại dưỡng
lão, mà là chỗ giam cầm những kẻ có tiền án giết
người dã man, những nhân vật đối lập với nhà cầm
quyền... Nó được xây dựng trong thời Cộng hòa Dân chủ Đức, như một nhà
tù bí mật và kiên cố. Sau khi nước Đức thống nhất
người ta đã bỏ quên nó, vì trên thực tế nó cũng
không có tên trong sổ hành chính và cũng không nhận một
nguồn tài trợ nào của chính phủ."
Thông tin của Bartmann làm tôi
ngạc nhiên:
"Nhưng nó vẫn còn tồn tại
cho đến bây giờ?"
"Nhờ một thế lực bí mật
nào đó tiếp tục bỏ tiền vào. Và phải là một thế
lực đặc biệt mới có thể trang trải hết các kinh phí
về vật chất và pháp lý. Tuy nhiên nguồn tài trợ đã
tiết giảm đến mức tối thiểu, người ta muốn quên nó
đi, muốn nó biến mất theo thời gian. Những người già
ở đây lần lượt chết, mang theo sự thật về thế giới
bên kia, đó là bí mật của những kẻ bị giam cầm và
cả những kẻ trả tiền để giam cầm người khác."
"Thật kinh khủng. Nhưng tại
sao họ không trốn ra bên ngoài. Trại giam này kiên cố
đến mức độ nào?"
"Trước đây nó có thể rất
kiên cố, với tường hào sâu và đồn lính canh. Bây giờ
chỉ là một đống hoang tàn đổ nát. Dường như nó
nhiều lần bị đập phá và đốt cháy. Những người còn
sống tụ tập lại trong khu nhà chính, trước đây là khu
văn phòng và nhà y tế. Họ già nua mất sức khỏe và mất
đi mối liên hệ với thế giới loài người. Hơn hai mươi
héc ta nông trại và vườn rau đó bây giờ là vương quốc
của họ."
Tôi ngắt lời:
"Như vậy họ có thể tự
túc lương thực?"
"Không hẳn. Nông trại chỉ
nuôi gà, một số lượng gà hoang khá lớn đủ để lấy
trứng. Vườn rau nhỏ thu hoạch vào mùa hè. Mỗi tuần có
xe chở lương thực đến cho họ. Bánh mì, thịt muối,
rau cải... vào ngày thứ ba."
"À. Đó là nguồn tài trợ
từ bên ngoài."
"Vâng. Nhưng ở mức độ tối
thiểu. Có lẽ một người nào trong số trại viên đó
vẫn còn là mối quan tâm đối với thế lực bí mật bên
ngoài. Người ta sẽ cung cấp thực phẩm cho đến khi tên
tù nhân đặc biệt này chết đi. Những người còn lại
cũng sẽ không sống thêm được bao lâu."
Tôi há mồm nhìn Bartmann:
"Thật là kinh khủng. Rồi họ
sẽ chết đói cả?"
"Tôi không nghĩ như vậy. Cái
đói sẽ đến rất chậm."
Bartmann lưỡng lự dừng lại một
lúc, rồi nói tiếp:
"Họ sẽ giết nhau vì thiếu
lương thực. Bầu không khí ở đó rất kinh khủng. Không
có một thứ luật lệ nào của xã hội con người, chỉ
có... Điều này thật khó suy diễn. Phải nhìn thấy gương
mặt và ánh mắt của những kẻ sống ở đó anh mới
hiểu được. Chúng là ánh mắt của những con thú hoang,
những con dã thú. Mười người còn sống sót ở đó đều
là những kẻ có tiền án giết người dã man. Các tù
nhân chính trị thì không còn nữa. Bà nấu bếp có kể
qua cho tôi nghe thành tích của từng người. Họ rất tự
hào về thành tích đó."
"Và John Gellert là một trong
số mười tên giết người đó. Thành tích của lão ta là
gì chứ?"
"Ba bản án giết người."
Tôi rùng mình, nhìn lãng ra cửa
sổ. Hẳn lão ta cũng tự hào về thành tích ghê rợn này.
Bartmann như hiểu rõ suy nghĩ của
tôi:
"Đúng vậy. Với quá khứ
này, Gellert là kẻ mang trọng án giết người nặng nề
nhất trong số trại viên."
Tôi hỏi:
"Lão ta không đi dưỡng lão
ở đó. Lão ta bị một kẻ bí mật tống giam vào chốn
thâm sơn cùng cốc. Đúng không?"
Viên thám tử nhìn tôi dò xét.
Không lẽ anh ta nghĩ, John là người thân của tôi? Không.
Đối với Bartmann, việc tìm hiểu quá khứ của một
người mang tên John Gellert hoàn toàn không khó khăn gì.
Hẳn anh ta biết rõ, John là kẻ đã bị lãnh án giết
người vào năm 1967, giết dã man một phụ nữ bán bánh
mì, sau mười năm tù đày hắn được thả ra. Ba năm sau,
tức là năm1980, hắn lại phạm tội lần thứ hai. Nạn
nhân trong vụ án mạng lần thứ hai này là mẹ ruột của
tôi. Giờ đây, có thể Bartmann đang lần tìm manh mối về
cái chết bí ẩn của Moni. Nhưng tôi không trả tiền cho
anh ta để làm việc đó. Một thám tử kinh nghiệm như
Bartmann tự biết mình phải làm gì và không làm gì - vì
thân chủ. Tôi lại im lặng đăm đăm nhìn ra cửa sổ.
Ngoài đó là những tàn cây trơ trụi lá. Lát sau, tôi
buộc phải lên tiếng:
"Chắc anh cũng đã tìm ra.
Năm 1980, gã đàn ông đó đã bị kết án giết chết mẹ
ruột của tôi. Điều tôi muốn biết bây giờ là, tại
sao lão ta bị giam trong đó."
Bartmann gật đầu:
"Đúng vậy. Ông ta bị giam
trong đó. Bởi vì không ai có thể tự ý vào đây dưỡng
lão hay lẩn trốn. Phải có một số tiền bảo đảm đóng
theo đầu người, do ai đó bỏ ra, kẻ bị điềm chỉ mới
bị tống vào đây cho đến mãn đời. Một số tiền rất
lớn. John là một trong những kẻ nằm trong đợt cuối
cùng bị đưa vào Abensberg SH. Sau đó, người ta bắt đầu
ngưng kế hoạch này, vì tình hình chính trị thay đổi và
cũng có thể vì nguyên nhân nào khác từ phía tổ chức
bí mật."
"Ông ta vào đó khi nào? Anh
có nắm được không?"
"Tất cả hồ sơ đã bị hủy
hoại hay bị lấy đi. Tủ đựng giấy tờ trống rỗng.
Không tài liệu lưu trữ. Không sổ sách. Không cả điện
thoại và sổ danh bạ điện thoại."
"Thật là một trại giam hoàn
chỉnh."
Bartmann lắc đầu cười:
"Đối với tôi, chẳng có
thứ gì hoàn chỉnh. Bà nấu bếp có cuốn sổ tay, ghi
khẩu phần ăn thêm bớt hàng tuần, của người mới vào
và người chết đi. Đoạn ghi chép sau này chỉ toàn người
chết. Đoạn trước đó, vào những năm sau khi nước Đức
thống nhất, số người vào cũng rất ít nên rất dễ
tìm ra. Trong đó, John Gellert được đăng ký khẩu phần
ăn bắt đầu từ ngày 20 tháng 11 năm 1993, dưới cái tên
Bernhart Dauner."
Moni mất ngày 7 tháng 11, khoảng
hai tuần trước đó. Một người thông minh sắc sảo, một
tiến sĩ tâm lý học chuyên về án mạng như Moni chắc
chắn phải biết John là kẻ cố cùng liều thân, cực kỳ
nguy hiểm với hai bản án giết người. Ngoài Moni ra, sẽ
chẳng có ai tìm cách tiêu diệt John, sẽ chẳng có ai quan
tâm đến gã, một kẻ tứ cố vô thân bị xã hội ruồng
bỏ, một kẻ đã sống gần hết đời người trong nhà
tù. Bà ấy là người thừa kế dồi dào tiền của, tuy
không là người có đầy đủ thế lực nhưng chắc chắn
một con người kỳ dị như Moni phải có những mối quan
hệ bí ẩn. Chỉ có thể là Moni. Tuy nhiên công việc diễn
tiến quá chậm và John đã có mặt ở Berlin trước dự
tính. Moni đã đi sai một nước cờ, sai lầm đó Moni phải
trả giá bằng cái chết của mình. Tôi bần thần nghĩ
đến lá thư tống tiền mà Moni cố tình để lại cho
tôi. Rõ ràng bà ấy đã đoán trước cái chết của mình.
Rõ ràng bà ấy cho phép tôi biết một phần sự thật khi
tin chắc rằng John đã bị một thứ quyền lực nào đó
khống chế. Không. Moni không đi sai nước cờ, mọi việc
dường như đều nằm trong tính toán của bà ấy.
Tôi quay sang hỏi Bartmann:
"Tình trạng sức khỏe của
người đàn ông đó hiện nay ra sao?"
"Tồi tệ suy sụp như tất
cả những người còn lại ở đó. Đặc biệt là trạng
thái tinh thần. Họ đều là những kẻ điên loạn bất
thường."
"Nhân viên làm việc thì
sao?"
"Về tình trạng sức khỏe
thì tất cả đều suy nhược và tâm thần như nhau. Nhưng
có một điểm, tôi cũng không rõ, có phải những người
đang điều hành công việc ở trại dưỡng lão thực sự
là nhân viên, hay họ cũng là trại viên tự đứng ra cáng
đáng công việc. Không có dấu hiệu khác biệt gì giữa
trại viên và nhân viên, chỉ trừ ra cách xưng hô. "
Tôi ngắt lời:
"Cách xưng hô khác biệt ra
sao?"
"Có hơn ba người trong trại
được gọi bằng họ ở ngôi Sie (ông/bà). Những người
còn lại sử dụng tên và ngôi du (mày tao)."
"À, vẫn có một thứ luật
lệ của thế giới loài người ở đây. John chắc hẳn
thuộc về thành phần trại viên?"
Bartmann lắc đầu, đôi mắt anh
ta như có bóng mây kéo qua:
"Không. Ông ta thuộc về
những kẻ được gọi bằng ngôi Sie: ông Dauner. Chính
điều này làm tôi đặt nghi vấn, họ là một tổ chức
tự trị."
"Còn bà nấu bếp?"
"À, bà ta thuộc về giai cấp
lãnh đạo. Điều này rất rõ ràng. Trong thế giới tận
cùng bản năng loài vật đó, kẻ nắm bao tử là kẻ có
quyền hành. Đó là người đàn bà vạm vỡ, tương đối
còn giữ được sức khỏe." Bartmann lưỡng lự, dừng
lại một chút, rồi nói tiếp:
"Cũng có thể, đó là một
người đàn ông chuyển giới. Người này thần kinh không
mấy tỉnh táo, dường như luôn say sưa bét nhè. Hắn có
một nguồn rượu cồn nào đó để giải trí, không biết
của bên ngoài đưa vào hay tự chưng cất. Ở triền núi
phía sau có khoảng đồi khá lớn trồng toàn nho."
"À. Rượu nho. John là kẻ
luôn say sưa bí tỉ. Chắc chắn gã sẽ nghĩ ra cách."
Tôi cảm thấy hài lòng trước
hàng loạt thông tin cụ thể mà Bartmann thu thập được.
Rõ ràng anh ta đã làm việc rất chuyên nghiệp và có
lương tâm. Với chừng này thông tin, tôi đã có thể lên
đường. Nếu John còn tỉnh táo tới độ nằm trong ban tổ
chức trại dưỡng lão, thì tôi vẫn có thể hỏi dò lão
ta một số điều. Tôi gật gù, đổi giọng niềm nở:
"Cảm ơn anh. Ngày mai tôi sẽ
đến đó."
Bartmann nhìn tôi chăm chăm:
"Tôi và một vệ sĩ của
công ty sẽ đưa anh đi."
Tôi lắc đầu, dợm đứng dậy:
"Không. Tôi sẽ đi một mình,
có chuyện riêng tư cần giải quyết giữa hai người.
Tiền công của anh sẽ được chuyển ngay hôm nay vào tài
khoản."
Khuôn mặt Bartmann nghiêm lại:
"Anh không thể đến đó một
mình. Đây hoàn toàn không phải là trại dưỡng lão. Linh
tính báo tôi biết, đó là một thế giới điên loạn và
nguy hiểm, và phía sau nó còn có những sự thật khủng
khiếp hơn. Nội cái nghĩa địa với một trăm ngôi mộ
hoang ngay trên đường vào cũng đủ làm dây thần kinh tôi
căng ra. Nếu anh có một mối thâm thù nào đó với John
Gellert thì lại càng không nên đến. Trong khu tự trị man
rợ thời Trung cổ này, hắn là thủ lãnh."
Một đám mây đen phủ xuống
trước mắt. Tôi chống tay lên cạnh bàn, dứt khoát đứng
thẳng dậy:
"Không. Đối với tôi, hắn
chỉ là chiếc chìa khóa để mở cánh cửa quá khứ. Một
chiếc chìa khóa rỉ sét và bẩn thỉu."
*
* *
Chiếc xe rời khỏi con đường
làng tráng nhựa, rẽ vào khoảng đường rừng đầy sỏi đá.
Bartmann ngồi sau tay lái, khuôn
mặt lạnh tanh.
Gã vệ sĩ ở băng ghế phía sau
cũng vậy, không biểu lộ cảm xúc gì.
Tôi nhìn lơ đãng ra bên ngoài, không gian mùa thu bị những tàn cây héo úa giam
hãm trở nên u ám lạ thường.
Hơi ẩm bên ngoài đọng thành
từng tảng sương mù. Chúng trắng xóa, đục lờ, giăng
giăng lưới nhện. Những cái lưới nhện khổng lồ có
thể quấn trọn chiếc xe. Tôi dụi mắt. Đó chỉ là ảo
giác. Sự hồi hộp làm tôi khó chịu và tức thở. Tôi
tìm cách nới rộng chiếc khăn quàng cổ bằng len, nhưng
nó bị sợi dây bảo hiểm giằng lên. Cái khăn quàng cổ
chết tiệt này.
Bartmann không nhìn sang, nhưng chắc
anh ta nắm hết mọi cử động của tôi. Giọng nói anh ta
vang lên thong thả:
"Qua hết đoạn đường rừng
này, sẽ rẽ vào con đường núi thoáng đãng."
Tôi bám lấy lời nói của
Bartmann cố kiềm chế cảm giác bức bối đang dâng lên
trong lòng. Dường như càng gần đến sự thật, tôi càng
trở nên xa lạ với chính mình. Thằng nhỏ Thomas cứ co
rúm lại trong bóng tối. Nó sợ. Nhưng bây giờ nó không
thể quay lui được nữa rồi.
Chiếc xe qua khỏi khúc quanh chật
hẹp có cây cổ thụ đổ ngang thì phải dừng lại.
Bartmann quay đầu lại phía sau, hỏi gã vệ sĩ:
"Ê, Yilmas. Lần trước trên
đường không có cái cây đổ này. Mà đường đi cũng
không quá chật hẹp như vậy."
Gã vệ sĩ tên Yilmas gật đầu:
"Tấm biển màu trắng cũng
chưa thấy đâu. Có lẽ chúng ta đã chạy lố qua."
Tôi nhìn thân cây to lớn bằng
khoảng hai người ôm, nhiều chỗ bị côn trùng đục
khoét lở lói dị dạng. Có lẽ nó đã nằm đây từ rất
lâu và đoạn đường này cũng dễ đến mười năm không
có ai qua lại. Bartmann cau mày, cho xe trở lui đầu. Chiếc
BMW cài số ba, chạy thật chậm len giữa mấy gốc tùng
già, cày lên đám rễ cây lồi lõm. Cả Bartmann và gã vệ
sĩ đều có vẻ căng thẳng, họ tập trung nhìn ra cánh
rừng phía bên phải. Ở đó, cây mọc nối tiếp nhau trên
mặt đất đầy lá vàng, không thấy lối rẽ nào. Xe chạy
lui chạy tới, loanh quanh rất lâu, cho tới lúc gã vệ sĩ
nhảy nhổm lên và la làng:
"Dừng lại. Đây rồi. Cái
chữ thập trắng kia."
Tôi nhìn theo hướng gã chỉ,
rùng mình nhận ra một gò đất nhỏ phủ đầy lá vàng.
Cái chữ thập bằng gỗ ló lên khiêm tốn trong đám lá
có lớp nước sơn trắng đã tróc gần hết. Giữa quang
cảnh hoang vu lạnh lẽo này, cái gò đất - cái cọc gỗ
chữ thập, hình ảnh ngôi mộ hoang đập vào mắt tôi như
một điềm báo không lành. Tôi rùng mình kéo lại chiếc
khăn len, trong khi Bartmann đánh tay lái cho xe quay lại rồi
chạy vào giữa hai gốc cây tùng lớn. Quả thật có một
con đường ở đây, hay từng có một con đường ở đây.
Nó bị mất dấu vì cây dại hai bên đã mọc lấn vào
gần đến giữa đường và lớp lá vàng dày đặc cũng
đã phủ kín mặt đất. Có thể trước đây nó là con
đường khá lớn với hai làn xe chạy ngược xuôi. Những
hàng cây già hai bên đường tạo ra khoảng cách rộng rãi
nói lên điều đó.
Chiếc xe chạy thận trọng trên
con đường giả định một lúc thì đâm ra chỗ sáng. Bên
ngoài cánh rừng là dốc núi thoai thoải. Khuôn mặt
Bartmann không hề giảm đi sự căng thẳng mà lại có vẻ
trầm trọng hơn. Ánh mắt cau có của anh ta hướng về
phía trước.
"Qua bên kia núi là đất
Tiệp. Trại dưỡng lão ở lưng chừng núi."
Con đường lên lúc đầu khá
rộng, vừa đủ cho hai chiếc xe ngược chiều cẩn thận
tránh nhau. Càng lúc nó càng hẹp dần, nhiều đoạn lại
rất hẹp và cheo leo do đá núi lâu ngày sụp đổ xuống.
Chúng tôi đánh vòng theo triền núi thoai thoải, bên phải
là thung lũng có nhiều đá tảng trắng và một con suối
trong trẻo. Phong cảnh mùa thu ở đây buồn lãng mạn với
những triền lau vàng úa. Tôi cố nhìn ra bên ngoài để
trấn tĩnh mình.
"Cảnh đẹp đó chứ."
Tiếng nói của tôi vang lên lạc lõng.
Không ai trả lời tôi. Màu vàng
vọt thê lương này như khối đá đè nặng lên ngực mọi
người.
Mãi lâu sau, Bartmann mới lên
tiếng:
"Nhưng bầu không khí thật
khó chịu. Nó im ắng quá."
Chốn núi rừng nào mà không im
ắng. Chỉ có điều, khi người ta biết ở cạnh đây còn
có sự sống của mười con người, có xe chở lương thực
ra vào mỗi tuần, thì sự im ắng này quả thật khó chịu.
Suy nghĩ của tôi dừng lại ở đó, cho tới khi một khung
cảnh hoang tàn hiện ra trước mắt làm tôi kinh hãi.
*
Trại dưỡng lão hiện ra sau khúc
quanh, trên một triền đất rộng bị bao vây bởi ba mặt
vách núi. Bartmann thận trọng cho xe tấp vào bên đường.
Cả ba chúng tôi cùng ra khỏi xe. Viên thám tử chỉ tay về
phía trước, nói với tôi:
"Đây là con đường duy nhất
dẫn vào trại dưỡng lão. Anh có nhìn thấy đám lau sậy
chưa đổi màu, vẫn còn xanh lè kia không? Đó là khu rạch
nước bao quanh trại. Những dãy đá trắng bên trên là
tường hào, vài nơi nhô cao lên cỏ cây rậm rạp là trạm
lính canh. Khu gò đất bên ngoài trại dưỡng lão là nghĩa
địa, với khoảng trăm ngôi mộ hoang."
"Mộ hoang là sao? Chẳng lẽ
không có tên tuổi gì trên đó?"
"Không. Chỉ có số hiệu và
ngày tháng, có thể đoán là ngày qua đời."
"Nhưng tại sao lại chôn
ngoài khuôn viên trại, lại ngay đường vào?"
"Có thể họ không muốn trại
viên sống thăm mộ trại viên chết. Lý do thứ hai, có lẽ
là đòn trấn áp tinh thần đầu tiên dành cho những kẻ
được đưa vào trại. Lý do khác nữa, phía sau khuôn viên
trại ngoài phần đất canh tác còn lại đều là núi đá,
chỉ có phía trước này là đất sỏi có thể đào sâu
xuống được. Anh nhìn vào bên trong xem."
Tôi nhìn theo hướng Bartmann chỉ
tay, thấy lô nhô nhà cửa đổ nát, những bức tường
nám đen như từng qua một trận hỏa hoạn, mấy cây cột
bê tông đổ gãy lòi cả cọc thép bên trong... Một khu
vực rộng lớn với nhà cửa, đường xá ngổn ngang như
thế này có thể chứa được bao nhiêu người? Trên trăm
người hay cả ngàn người? Một trại dưỡng lão, một
nhà giam khổng lồ như vậy mà không hề có tên trên bản
đồ.
Như hiểu được ý tôi, Bartmann
gật gù:
"Một công trình quy mô, đúng
không? Hai phần ba diện tích chưa xây dựng xong thì bị
bỏ phế."
Bartmann lại chỉ tay về phía dãy
nhà xây bằng gạch nung đỏ, mái nhà đen sì cong oằn
xuống như sắp sụp.
"Đó là khu văn phòng, nơi
đám người già còn sống sót cư ngụ."
Gã dừng lại một chút rồi quay
lại bảo tên vệ sĩ:
"Yilmas, cậu có thấy chiếc
xe tải đậu ở khoảng sân sau không? Có vẻ như là xe
chở lương thực đến. Hôm nay là thứ tư. Chẳng lẽ họ
đổi ngày giao hàng?"
Yilmas đưa ống dòm lên quan sát:
"Không thấy ai chuyển hàng
xuống. Cửa xe bên tài xế để mở. Có lẽ họ đã
chuyển hàng xong và chuẩn bị ra đi."
"Có thể. Nếu họ vừa đến
thì chúng ta đã có khả năng thấy họ từ ngoài đường
rừng." Bartmann nhìn sang tôi dò hỏi:
"Ý anh thế nào?"
Tôi lưỡng lự nhìn quanh, khung
cảnh hoang vu ghê rợn làm tôi thấy bất an. Nếu bây giờ
trở về, sẽ không bao giờ tôi có đủ can đảm quay lại
đây. Thật may là tôi không đi một mình.
"Nếu người chở lương thực
phát hiện ra chúng ta thì sao?"
"Chẳng sao cả. Anh ta chỉ là
kẻ chở hàng ăn tiền công, và được trả thêm tiền để
giữ im lặng. Còn chúng ta chỉ là những người lùng mua
trứng gà rừng."
Tôi nhìn xuống bộ quần áo cũ
của mình. Đôi giày thể thao rẻ tiền mua ở chợ trời
đang há mõm rách bên dưới ống quần thể thao bạc màu.
Bartmann và Yilmas cũng ăn mặc lùi xùi nhưng theo kiểu nông
dân Bayern. Tôi gật đầu:
"OK. Chúng ta lái xe vào trại
đi, tôi chỉ cần hỏi John vài câu rồi mình đi ngay."
Cả ba chúng tôi lên xe. Con đường
đổ dốc qua mấy đoạn quanh co mới tới được bên khu
nghĩa địa. Đúng như Bartmann nói, ở đây có rất nhiều
mộ hoang. Chúng nằm lộn xộn không theo hàng lối, nên
càng tạo thêm vẻ thê lương vô chủ. Nhiều thập tự
giá đã hư hỏng, mấy thanh gỗ ngang treo lủng lẳng đong
đưa theo gió thật bi thương. Chiếc xe chạy qua cây cầu
gỗ bắt trên lạch nước rộng đầy lau sậy, tiến vào
vùng đất hoang tàn đổ nát. Nhiều thềm nhà đã phủ
kín cỏ, không biết bị bỏ hoang từ bao giờ. Có những
bức tường vẫn còn đen sì khói, phủ tàn tro bụi, tưởng
như mới bị đốt cháy vài ngày trước đó.
Im ắng. Hoàn toàn im ắng.
Tôi chịu không nổi, quay sang hỏi
Bartmann:
"Lần trước anh đến cũng
thấy im lìm vậy sao?"
Viên thám tử gật đầu:
"Chỉ toàn người già thì..."
Câu nói của Bartmann bỏ dở ở
đó, dường như còn mang một ý nghĩa nào khác. Gã nhìn
vào kính chiếu hậu, nói với tay vệ sĩ:
"Yilmas. Cậu giữ khu vực bên
ngoài. Ra sân sau xem chừng chiếc xe chở hàng và thằng
tài xế."
Chiếc xe vào đến khoảng sân
trước của dãy nhà cũ kỹ, được gọi tên là khu văn
phòng. Bartmann cho xe tiến sát đến bên tường, từ mé
đó, Yilmas đẩy cửa chuồi nhanh ra ngoài. Chiếc bóng của
gã thoáng chốc đã biến mất đi đâu.
Bartmann ra khỏi xe cùng lúc với
tôi. Gã xách theo một cái túi vải, có vẻ rất nặng.
"Anh theo sát tôi, chúng ta vào
gặp gã đàn ông tên Dauner, đừng nhắc gì đến tên John
Gellert."
Tôi gật đầu theo Bartmann bước
lên thềm.
Cánh cửa gỗ rất dày đóng im
ỉm. Bartmann xô thử mấy lần, nó vẫn không dịch chuyển.
Gã quay lại nhìn tôi, vẻ mặt lo lắng:
"Không ổn rồi. Tại sao họ
đóng cửa chính lại? Tôi với anh đi vòng ra phía sau thử
xem."
Tôi nối bước sát theo gã.
Bartmann vẫn chưa yên tâm, quay lại dặn dò:
"Đi cẩn thận. Khu vực này
có thể đặt nhiều hầm bẫy."
Tòa nhà rất dài, tường đắp
kiên cố. Tất cả cửa sổ đều có song sắt chắc chắn,
đóng ván gỗ bịt bùng. Những cửa ra vào bên hông cũng
bị xây kín bằng gạch đá. Tôi bám sát theo Bartmann đi
theo suốt chiều dài của gian nhà, giữa bầu không khí
vắng lặng thê lương. Nếu không có Bartmann đi kè kè bên
cạnh, chắc tôi đã vãi đái trong quần.
Con đường phía sau dẫn vào mảnh
sân rộng, có vẻ là khu vực nhà bếp vì cạnh bên tường
có chất rất nhiều củi. Bartmann quay lại nói:
"Anh đi theo đúng dấu chân
của tôi."
Tôi không biết, căn cứ vào đâu
gã thám tử xác định được vị trí an toàn để mà
bước lên. Nhưng lúc này không phải là lúc hỏi lan man.
Tôi thận trọng bước theo Bartmann. Dường như gã chỉ đi
thẳng chứ không có gì đặc biệt. Cánh cửa vào phía
bên này không lớn lắm, có hai ổ khóa. Bartmann chỉ loay
hoay một chút là mở xong. Gã áp tai lên cửa lắng nghe
một lúc rồi nhẹ nhàng đẩy cửa vào.
Phía bên trong cũng vắng lặng
như bên ngoài, nhưng hôi hám và ẩm mốc không thể tưởng.
Tôi giật mình nhớ đến lời cảnh cáo của viên thám
tử: "Đó là một thế giới khác." Bartmann
ra dấu cho tôi tiến đến cánh cửa thứ hai. Nó cũng đóng
kín và có hai ổ khóa.
Bartmann ghé vào tai tôi thì thầm:
"Không biết có chuyện gì
xảy ra ở đây. Tại sao họ khóa kín các lối vào. Lần
trước tôi đi qua cửa chính rất thoải mái."
Chúng tôi đi qua cánh cửa thứ
hai không khó khăn gì. Trong vùng không khí tối tăm ẩm
mốc bỗng có tiếng động từ đâu vọng đến rổn rảng.
Bartmann và tôi lật đật nép vào bờ tường khai rình mùi
nước tiểu. Tiếng nói của ai đó đột ngột vang lên ồm
ồm:
"Ngồi im. Tất cả ngồi im
tại chỗ."
Vẫn giọng nói đó lại tiếp
tục la to hơn, không rõ giọng đàn ông hay đàn bà:
"Hôm nay có món súp thịt bò.
Thịt bò thứ thiệt."
Tôi nhìn xuống cổ tay, trong ánh
sáng lờ mờ, đồng hồ chỉ ba giờ chiều. Không rõ đây
là buổi ăn trưa hay ăn chiều của trại. Lại cũng không
rõ, thịt bò thứ thiệt là cái quái quỷ gì. Bartmann
không quan tâm tới những điều đó, gã ngoắc tay bảo
tôi bước tới. Tiếng động bây giờ nghe rất rõ ràng.
Tiếng muỗng khua rổn rảng. Bartmann nép mình sau khung cửa
kính vàng ố, ra dấu cho tôi nhìn vào.
Bên trong là căn phòng rộng, với
hai dãy bàn còn nguyên vẹn và một đống bàn ghế gãy
nằm ngổn ngang. Ánh sáng tỏa ra từ một ô cửa sổ nhỏ.
Nó có song sắt dày nhưng không bị đóng kín bằng ván
như những ô cửa khác trong tòa nhà. Trên tường vẫn còn
lủng lẳng những tấm vải đỏ. Nhiều tấm tuột đinh
móc. Nhiều tấm ngả màu úa.
*
Học thuyết của Marx toàn
năng, vì nó là sự thật
*
Chủ nghĩa xã hội càng vững
mạnh - Hòa bình càng vững chắc
*
Học Liên Xô, nghĩa là học
cách chiến thắng
*
Một người đàn bà vạm vỡ có
râu mép đang múc súp cho từng người. Nồi súp bốc khói
nằm trên chiếc xe đẩy bằng gỗ, được kéo vòng qua
hai dãy bàn. Từ đó bốc lên một mùi kinh tởm thật khó
tả. Không rõ là mùi gì. Mùi cải chua thối hay mùi hành
thối. Có khoảng hơn mười người ăn mặc bẩn thỉu,
đang im lặng thưởng thức bữa ăn. Tất cả đều lừ đừ
chậm chạp và dường như không còn khả năng nghe nhìn.
Người đàn bà độc thoại một mình:
"Victor, khéo đổ súp ra bàn."
"Alex, đừng có khua cái muỗng
điếc tai như vậy."
"Tổ cha đám đàn ông tụi
bây. Mấy thằng chuyên vọc c. ăn c."
"Ông Dauner, xin đừng hỉ mũi
ra bàn. Khăn của ông đây."
Tôi giật mình nhìn về phía
người đàn ông tên Dauner.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét