Do quá bận rộn với công việc nên tôi quên đăng tiếp mấy chương cuối của Bờ Bên Kia. Chắc khoảng tháng sau tôi sẽ cố thu xếp thời gian bắt tay vào viết cuốn tiểu thuyết mới. Có rất nhiều đề tài hay (giả tưởng, thriller, đời sống người Việt tị nạn...) chỉ sợ mình không bền chí.
LTH
LTH
Bờ
Bên Kia
Chương
15: Hỏa lực miền Đông
Con đường trở về Laksevåg
không gặp nhiều khó khăn vì thời tiết. Đường du lịch
liên tỉnh, may quá, vẫn còn chưa bị chặn. Từng chuyến
phà Lavik - Oppedal rùng rùng chở khách sang bờ. Tôi ngồi
trên tầng hai, nhìn gió lạnh quất từng hồi qua bong tàu
sũng nước. Giờ đây tôi không còn mang cảm giác sợ hãi
phải chạy trốn sự thật. Còn một cái khủng khiếp
hơn. Tôi phải đối diện với sự thật.
Văn phòng ông Amberg hiện ra ở
cuối đường, trong màn tuyết mỏng. Tôi thận trọng dừng
xe ở đầu dường, khuất phía sau dãy thùng chứa rác. Chỉ
có ông Amberg biết chính xác vị trí căn nhà tôi thuê
trên núi. Cảm giác đau đớn tràn qua tim, khi tôi nghĩ tới
ánh mắt ân cần ấm áp của ông. Bọn sát thủ chuyên
nghiệp sẽ không chừa một thủ đoạn tàn ác nào để
lấy thông tin. Ông Amberg từng là nhà leo núi chuyên
nghiệp, sự dũng cảm và sức chịu đựng của ông có lẽ
chỉ làm thảm hoạ thêm tồi tệ hơn. Những tấm cửa
kéo của văn phòng đóng im ỉm vào ban ngày, báo hiệu
điều không lành. Tôi ngồi mãi trong xe, liên miên nghĩ
ngợi và thấy mình sợ thắt ruột chuyện phải đến gõ
cửa. Nhiệt độ trong xe tắt máy càng lúc càng lạnh
thêm. Nhiều cuốn phim kinh dị lướt qua trong đầu, ở
đâu tôi cũng tìm ra hình ảnh một người hùng ào ào
xông xáo giữa chốn hiểm nguy. Họ đâm đầu tới, nguy hiểm sờ sờ
trước mặt mà không có thời gian để suy tính. Tôi lại
có quá nhiều thời gian để suy tính mà không biết nguy
hiểm nằm ở đâu.
Tôi hít sâu một hơi. Khí lạnh
tràn vào buồng phổi không làm tôi can đảm hơn mà chỉ
tuột ra một cơn ho rũ rượi. Tôi kéo kín cổ áo, lóng
cóng trèo ra khỏi xe.
Tuyết gom ra hai bên lề đường
đã đóng thành băng. Đôi giày tôi bám chặt lên mặt
đường rải đá dăm lần mò về phía cánh cửa sơn xanh.
Những tấm cửa kéo bằng gỗ dày đóng kín im lìm thật
đáng sợ. Một sát thủ chuyên nghiệp sẽ không bao giờ
đứng như trời trồng trước cửa căn nhà có hiểm họa.
Họ sẽ vùn vụt leo lên tường vòng ra lối sau. Họ sẽ
nhanh chóng mở lưới thông hơi đột nhập vào tầng hầm.
Matt Damon sẽ cố thủ ở một chỗ rất xa, bắn vào chiếc
xe màu đen đậu trước cửa phòng du lịch. Chiếc xe nổ
tung. Khói lửa mịt mù. Khi bọn sát thủ trong nhà hoảng
hốt xông ra, gã sẽ - từng phát - từng phát chính xác
lấy đi sinh mạng đối phương. Đó là Matt. Đó là
Buoune.
Tôi, Doctor Nguyen, gõ lộp cộp
lên lớp gỗ dày và mếu máo gọi:
"Ông Amberg. Ông Amberg ơi."
Bên trong vẫn lặng thinh. Tôi ghé
mắt nhìn qua khe hở hẹp. Gian phòng tối om. Ông Amberg
ngồi dựa ngửa sau bàn giấy trong một tư thế bất
thường. Trong bóng tối phía sau thấp thoáng hiện ra khuôn
mặt sát thủ đẹp như trẻ thơ của Brat Pitt, ánh mắt
cau có của Leonardo DiCaprio. Tôi cúi thấp người xuống,
xộc tay vào túi áo khoác. Không có súng ống gì, chỉ có
chùm chìa khóa lạnh tanh và hai viên kẹo ho. Bộ dao mổ
nằm sau cốp xe, lẫn trong đám quần áo lót.
Tôi lại dí mắt nhìn sâu vào
căn phòng tối. Bàn tay bị bằm nát của kẻ xấu số
buông thõng bên thành ghế. Ánh mắt kinh hãi mở trừng
trừng trên bộ mặt bị một vết chém ngang còn ứa máu.
Ông Amberg. Tôi bụm miệng lao trở
ra xe.
Đoạn đường ngắn mươi ba cây
số từ Laksevåg về phi trường Bergen trở thành cơn ác
mộng dài mịt mùng. Tôi phóng xe như người mù trong đoạn
đường hầm, không còn biết tới vận tốc, một trăm
hai hay một trăm sáu hay một trăm tám... chiếc Fiat nhỏ
rung lên như con thú trong cơn hoảng loạn.
Không biết bằng cách nào tôi mò
được tới phòng bán vé. Như một đoạn phim bị cắt
ngang, tôi tỉnh dậy, thấy mình ôm cái vali nằm co ro
trong góc tường. Sáng sớm mai mới có vé cho tôi về
Berlin. Max Krusovice sẽ chờ tôi ở phi trường cùng lệnh
bắt giam. Không, có lẽ gã chưa biết gì hết. Bọn sát
thủ luôn đi trước cảnh sát một bước. Tôi lục điện
thoại di động trong giỏ xách. Cái iPhone tội nghiệp nằm
lẫn trong đám vớ len bốc mùi hôi. Từ lúc trên phà tắt
máy để cắt sóng, tôi gần như quên hẳn nó cùng với
nền văn minh con người. Thật ra, một bác sĩ pháp y thì
không có kinh nghiệm gì về mấy thứ máy móc này, nhưng
phim ảnh Hollywood luôn dạy rằng phải cẩn thận với
sóng điện thoại. BKA sẽ truy ra địa điểm gọi ngay sau
vài phút kết nối đường giây. Nhưng bây giờ thì tôi
mặt kệ, chẳng thà bị BKA bắt giam còn hơn bị giết
chết trong cơn hoảng loạn ở xó xỉnh nào đó.
Trong di động lưu lại hàng loạt
tin nhắn. Ba tin của cô Diễm. Sáu bảy cái tin của con
Thảo. Quái lạ, con nhỏ này từ ngày lấy chồng sanh con
rất ít khi liên lạc với chị hai nó. Tôi mở cái tin
cuối cùng. "Mạ qua được lần phẫu thuật kế
tiếp. Chị ở đâu?"
Cảm giác kinh hãi tràn qua lòng.
Tôi run rẩy mở cái tin nhắn đầu tiên của con Thảo, nó
được gửi đi một ngày sau khi tôi rời Berlin. "Mạ
tự tử. Tình trạng rất nguy kịch. Chị ở đâu?"
Tôi đọc hết mười cái tin nhắn
của con Thảo và cô Diễm mới hiểu qua tình hình. Mạ tự
tử trong nhà, uống hết hũ thuốc trợ tim, cắt mạch máu
cổ tay, lết được ra tới cửa thì hết sức. Ngay buổi
sáng đó, cô Diễm có hẹn với mạ đi xem bếp mới ở
IKEA. Cô gọi cửa, kêu điện thoại liên tục, không thấy
mạ trả lời. Cô la hoảng lên làm hàng xóm chạy sang. Họ
gọi cảnh sát tới phá cửa,tìm ra mạ nằm sóng sượt
trong nhà. Mạ qua hai lần phẫu thuật và được truyền
máu. Hiện nay mạ nằm ở nhà thương Rudofl Virchow, tình
trạng sức khoẻ vẫn chưa rõ.
Tin nhắn nào con Thảo cũng kết
thúc bằng câu hỏi đầy bất lực: "Chị ở đâu?".
Câu hỏi như cú đấm trực diện. Tôi thấy tối tăm cả
mặt mày. "Chị ở đâu?" Ngoài chính tôi
ra, chỉ có hai người có thể trả lời câu hỏi này. Đó
là mạ và ông Amberg.
Tôi nhớ lại lần gọi điện
cuối cùng cho mạ, giọng cười rúc rích sung sướng của
mạ khi nhắc tới giàn bếp mới. Không lẽ gì mạ lại
tự tử ngay hôm trước khi đi với cô Diễm ra IKEA xem
bếp. Thời gian sau này mạ trẻ ra và rất yêu đời, hoàn
toàn không có dấu hiệu gì muốn quyên sinh.
Tôi gọi cho Stephan Beck, bác sĩ
trưởng khoa tim mạch bên Rudolf Virchow. Anh ta đang có giờ
họp buổi chiều. Cô thư ký bảo tôi để lại tin nhắn.
Tôi gọi điện thoại cho con
Thảo. Nó khóc rống bên kia đầu dây.
"Mạ xanh lè chỉ còn thở
thoi thóp. Mạ lại không chịu ăn, không chịu uống thuốc.
Chị đi đâu mấy ngày nay? Rủi mạ chết rồi sao? Chị
nhờ bạn bè bên nhà thương đó lo cho mạ, được không?"
*
Từ sân bay Tegel, tôi thuê taxi về
thẳng nhà thương Rudolf Virchow. Nhà thương nằm rất gần
sân bay, theo đại lộ Saatwinkler Damm về trung tâm quận
Wedding chỉ hơn năm cây số nhưng lòng tôi đốt cháy cả
con đường.
Xe chưa kịp dừng tôi đã nhảy
xuống, suýt nữa thì quên lấy theo hành lý, quên trả
tiền taxi.
Tôi kéo vali ào ào qua mấy bậc
tam cấp, xông thẳng vô phòng cấp cứu. Tôi đọc tên mạ
như bò rống, không ai hiểu tôi nói gì. Tôi đánh vần
lặp bặp cũng chẳng ra hồn. Cô ý tá trực tưởng tôi
không biết tiếng Đức, cô thản nhiên đẩy cây viết và
tờ giấy sang cho tôi. Không còn sức để la, tôi phải
viết tên mạ ra giấy.
Người phụ nữ trẻ điềm nhiên
lục tìm tên bệnh nhân trong computer, trong khi tôi thở hổn
hển tự trấn tĩnh mình. Cô đưa cho tôi địa chỉ bên
khoa hồi sức, kèm theo lời chỉ dẫn tận tình dành cho
người ngoại quốc. Tôi kéo vali phóng ra khỏi cửa, tiếng
cô chỉ còn loáng thoáng sau lưng.
Mạ nằm sau tấm kính trong suốt.
Dây nhợ đeo đầy mình. Thân hình mỏng tanh của mạ dán
sát trên tấm nệm trắng. Khuôn mặt im lìm như đã chết.
Tôi đau đớn nhận ra, đó chính là mạ. Không phải người
đàn bà luôn tất tả mang mâm bánh lá chạy từ trong bếp
ra phòng khách, chân trật trẹo kéo lê đôi dép nhựa,
miệng cười giả lả. Lại không phải là người phụ nữ
phơi phới tuổi hồi xuân, săm soi dáng mình trước kính,
nôn nao chờ tới cuối tuần để đi tăng gô xì lô.
Đó là mạ, tả tơi tuyệt vọng
trong bóng đêm ký ức.
Trong bóng đêm ký ức của hai mẹ
con, tôi quỵ xuống thảng thốt gọi. Mạ ơi. Mạ ơi.
Tiếng mạ nghẹn ngào vang lên từ
miền kinh hãi. Nhắm mắt lại. Nhắm mắt lại đi. Con ơi.
Mạ ơi.
*
Stephan vừa gọi điện thoại. Mạ
đã qua cơn nguy kịch, chỉ thiếu sự phấn đấu và không
chịu hợp tác với bác sĩ. Tôi nói vài lời cảm ơn
người bạn thời trung học và nhờ anh đặc biệt chăm
sóc mạ. Câu hỏi trong đầu tôi cứ lớn dần, nhưng lúc
này tôi không thể hỏi thẳng Stephan. Có thật là mạ tự
tử? Người đang có thông tin chính xác nhất về mạ chỉ
có thể là Max. Hắn là thanh tra hàng đầu ở Berlin, kẻ
không bỏ qua một chi tiết nhỏ nào của vụ án.
Tôi lại thuê taxi về nhà lấy
xe, không có cả thời gian lên phòng rửa mặt. Dường như
có ai lấy khoan máy châm từng mũi vô thái dương tôi,
không đau, nhưng có những tiếng rè rè rất dễ sợ. Bọn
sát thủ hành xử rất dã man, chúng sẵn sàng giết người
để lấy thông tin, nhưng chúng không hề có ý định giết
tôi. Những câu hỏi kỳ dị của Chấn, mối quan tâm dai
dẳng của hắn đối với ngành pháp y cứ lẩn khuất
trong màn sương dày đặc. Chỉ có thể là Chấn và đồng
bọn của hắn. Chúng đang cần sự trợ giúp của một
bác sĩ pháp y để rửa sạch những dấu vết tội ác.
Hiện nay Chấn đang ở trong tù,
theo lời cô Diễm, nhưng đồng bọn của hắn vẫn còn
hoạt động bên ngoài. Chú Minh có lần nói, muốn tìm ai
bên phía Đông này cứ tới Đồng Xuân Center mà hỏi. Đó
là khu chợ trung tâm, niềm tự hào của cộng đồng người
Việt gốc Bắc tại Berlin. Max thường nói đến nó như
một trong những điểm nóng của thành phố về ẩm thực
phương Đông, hàng hóa không nguồn gốc, dịch vụ
massage, cắt tóc làm móng tay, dịch vụ chạy thuế chạy
giấy tờ và cả môi giới tình dục. Nhân viên của Max
được cử đến dây hàng tuần để ăn phở và cắt tóc.
Đoạn đường từ trung tâm
Berlin sang quận Lichtenberg vào giữa trưa ngày thứ bảy
tương đối vắng vẻ, tôi chỉ mất khoảng hai mươi phút
nhấn ga. Xe chạy vào đường Herzberg là lạc vào một thế
giới khác, thế giới của những người tóc đen, của đì
đùm bao bị hàng hóa, của những người phụ nữ trẻ
đẩy xe nôi... Tôi theo bóng dáng người Á Châu chạy xe
tới cái cổng chợ cầu vồng vàng khè bắt ngang qua hai
dãy nhà cũ kỹ. Đồng Xuân Center.
Giữa sương mù lạnh lẽo, mấy
lều thịt nướng bên ngoài khu nhà lồng chợ vẫn bốc
khói tưng bừng, thơm ngát mùi hành tỏi. Tôi tò mò dừng
xe một chút, nhìn quanh. Mạ đi chợ Đồng Xuân về hay
kể: "Người ta nướng thịt ngoài trời thông
thoáng, rồi mới đem vô nhà hàng trong chợ làm món bún
chả Bắc." Món này ở nhà Mạ gọi là bún thịt
nướng, dễ ăn mà đậm đà, ai cũng thích, từ người
Việt sành điệu cho tới người Đức mới làm quen với
thức ăn Việt. Mỗi lần sang đây chơi, mạ đều mua về
cho tôi với con Thảo, con Thùy mỗi đứa một gói. Bao tử
tôi bây giờ cồn cào dữ dội. Suốt hai ngày nay tôi chỉ
gặm vài lát bánh mì khô và uống cà phê đen.
Mấy dãy nhà lồng chợ xây bằng
bê tông kiên cố, xe cộ đậu kín cả hai bên. Tôi ngạc
nhiên nhận ra, đa phần là BMW, Audi, Mercedes loại đắt
tiền hay siêu hạng. Chấn thường nói, chiếc xe là bộ
mặt của con người. Giàu nghèo gì cũng phải chăm chút
cái mã bốn bánh. Tôi đoán, kiểu sống của người Việt
miền Bắc có vẻ cũng là kiểu sống của người Nga hay
người Ba Lan. Phương châm của người Nga, người Ba Lan
rất rõ ràng mạch lạc, họ tuyên bố thẳng thừng trên
báo chí trên tivi: "Mình phải cho thiên hạ thấy
cái mà mình có". Cái dễ dàng cho thiên hạ thấy
nhất là xe cộ, áo quần, đồng hồ đeo tay... Văn hóa và
kiến thức là những thứ ở phía sau, hay là thứ không
cần có.
Tôi tìm được một chỗ ngoài
bãi xa, khiêm tốn đậu chiếc Nissan cà tàng phía sau mấy
thùng rác.
Những dãy nhà lồng có đánh số
phía trước: Halle 1, Halle 2, Halle 3... Có rất nhiều Hallen
như vậy, bên ngoài hè giăng đầy bản hiệu, tiếng Đức,
tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Ả rập. Thời trang tóc nam
nữ. Travel & more. Euro Asia Restaurant Ẩm thực. Nails
Open. Người ta lom khom chui ra chui vào mấy ô cửa to có
treo tấm nhựa dày xẻ dọc.
Tôi chẳng có sự chọn lựa nào,
cứ bước thẳng tới Halle gần nhất. Lách qua khung cửa
treo màn nhựa dày chống gió và lạnh, tôi bước vào
khoảng không gian khác lạ. Ở đây ẩm ướt, đông đúc,
ồn ào và đậm đặc mùi vị. Tiếng nhạc oang oang, tiếng
chén dĩa va chạm, tiếng người mua bán gọi nhau. Mùi thịt
nướng, mùi nước phở, mùi rau cải chua, mùi xà bông gội
đầu... lẫn lộn. Tôi dừng lại bên bức tường lem luốc
bẩn thỉu dán đầy giấy quảng cáo, phân vân tự hỏi,
mình tìm gì trong chốn hỗn tạp này. Bao tử tôi nhanh
chóng trả lời: "Rồn rột".
Tôi bước vào hàng ăn bên cạnh
tiệm cắt tóc. Cửa hàng khá lớn, nhưng còn nhiều chỗ
trống. Mùi phở bốc lên thơm tho diệu kỳ. Tôi hối hả
kêu một tô phở chín.
Chưa đầy năm phút, cô chạy bàn
đã bưng ra tô phở bốc khói. Suýt nữa tôi hét lên vì
mừng rỡ. Phở nóng thơm mùi quế, mùi hành, mùi gừng.
Trước đây tôi thường than phiền, nước lèo ở các
quán không đậm đà béo ngọt như mạ nấu nhưng hôm nay
lại thấy ngon lạ lùng. Đây phải là tô phở ngon nhất
mà tôi được thưởng thức. Những tiếng rè rè trong đầu
dường như đã giảm bớt khi làn nước nóng êm đềm
chảy xuống bao tử. Đầu tôi giãn dần ra cho khát vọng
ăn uống có chỗ vùng vẫy. Sau tô phở sẽ là dĩa bánh
cuốn với chả quế, hay cả một mâm bún thịt nướng.
Tôi chúi đầu xuống bàn ăn, không biết gì tới khách
khứa xung quanh.
Ai đó kéo ghế ngồi trước mặt
tôi.
"Chị ăn khoẻ thế. Mới đi
làm ca về à?"
Tôi giật mình nhìn đồng hồ,
14 giờ 35. Gã thanh niên ngồi trước mặt còn khá trẻ,
chắc bằng cỡ tuổi thằng Cường. Một khuôn mặt điển
trai. Tóc tỉa lòa xòa. Hàng lông mày mảnh như con gái.
Nhưng làn môi thâm tái và hàm răng cửa ố vàng do hút
thuốc làm gã có vẻ dơ và xấu. Gã nói giọng Bắc Trung
Bộ cố nhại giọng Nam.
Tôi chậm rãi gật đầu dù không
biết gã đang nghĩ tới "ca" gì.
"Vất vả thế."
Tôi gật đầu.
"Đi một mình à?"
Tôi lại gật đầu.
"Chị là dân bên này?"
Không lẽ thằng này nói gì mình
cũng gật đầu. Tôi lắc đầu, cũng không rõ bên này là
bên nào.
"Vậy chị là dân bên Tây
à?"
Tôi gật đầu, vội vàng húp
thêm muỗng nước phở. Giọng thằng này nặng chịch lại
làm điệu bộ uốn éo thật khó nuốt.
"Nhìn qua là em biết ngay. Dân
bên Tây ăn mặc cứ lôi thôi thế nào. Đẹp như chị mà
chịu khó tỉa tót một tí là thành hoa hậu."
Tôi trợn mắt nhìn gã. Ánh mắt
vuốt ve của gã sỗ sàng đáp trả.
"Dáng vóc đúng chuẩn thế
kia, ngực nở, mông tròn, chân dài, chỉ tội không biết
ăn diện."
Gã lại tiếp lời, giọng nhả
nhớt pha thêm vài ký đường củ cải. Ánh mắt lại vuốt
ve, nào là ngực, nào là chân, nào là mông, dù là chân và
mông đang khuất dưới tấm trải bàn. Tôi cố chống lại
cảm giác khó chịu đang bò trên da. Bàn tay tôi bất giác
đưa lên che ngang miệng. Chưa nghe gã bình luận tới mặt
mũi. Nào mắt, nào miệng, nào môi. Sao nhà hàng này không
có tấm gương nào. Từ hai tuần nay tôi chẳng còn hồn
vía để soi gương. Bộ áo quần lê lết từ Na Uy về tới
đây thì đang bốc mùi chua. Chưa bao giờ tôi đặt mình
vào tình thế bị động trước đàn ông. Bao giờ tôi
cũng rất tự tin với nhan sắc của mình. Bỗng nhiên
trong bộ dạng lem nhem này lại gặp trúng một thằng nhóc
mắt diều hâu, tâm cú vọ.
"Xe chị đậu ở đâu? Để
em ra trông hộ. Không khéo đậu nhầm chỗ cấm. Quanh đây
để bản cấm cả nhưng nhiều người không thấy."
Suýt nữa tôi làm rớt cái muỗng
xuống tô phở. Cách đây ba năm, ba tôi cũng ngồi trong
chợ Đồng Xuân này, một cô gái trẻ cũng hỏi ba câu
đó.
"Xe chú đậu ở đâu? Để
cháu ra trông hộ. Không khéo đậu nhầm chỗ cấm."
Đó là cách hỏi thăm dò của
người bên đây (ờ, tức là bên Đông). Họ cần nhìn
chiếc xe để đánh giá tình hình tài chánh đối phương.
Lúc đó ba chỉ chạy chiếc VW Passat bình thường, nhưng
cô gái xứ Nghệ đó cũng không buông ba ra. Tôi nghĩ tới
chiếc Nissan cà tàng của mình ngoài bãi, nếu anh chàng
này nhìn thấy nó thì cuốn gói chạy dài. Bất giác tôi
ngồi thẳng dậy, mỉm cười:
"Tôi đi tàu điện."
Cuộc chơi đã rõ ràng, tôi biết
gã là ai, muốn gì. Ánh mắt gã thoáng vẻ thất vọng,
nhưng rồi gã nhanh chóng đổi sang cười thân thiện, thôi
kiểu đãi bôi.
"À. Dân làm thuê cả mà. Chị
sang đây lâu chưa?"
"Lâu lắm rồi, cũng không
nhớ rõ."
"À. Thế là có giấy un
đấy."
Tôi lắc đầu vì ghét cái chữ
giấy un. Nó có nghĩa là unbefristete
aufenthaltserlaubnis, giấy phép cư trú vô thời hạn.
Thằng khỉ lại hỏi:
"Thế thì phải quốc tịch
Đức?"
Tôi miễn cưỡng gật đầu, nghĩ
bụng, nếu thằng này hỏi thêm một câu nữa thì tôi
đuổi nó đi.
Hình như nó biết tôi bắt đầu
bực mình nên không hỏi nữa mà đổi sang giọng tâm
tình:
"Tâm sự với chị: em làm
việc ở tiệm mỹ phẩm cạnh đây. Chị có nhu cầu xâm
mắt, xâm môi, xâm chân mày thì em bố trí lịch ngay. Nói
thật với chị nhé, ngay khi chị vừa bước chân vào quán
em đã biết chị là dân bên Tây rồi. Chị em bên này
mười người thì cả mười đều biết tỉa tót, đánh
chân mày, kẻ viền môi. Có ai lại để lem nhem như chị
đâu."
Tôi cố kiềm lại cảm giác muốn
đưa tay lên rờ chân mày. Cả đám rừng Na Uy đang mọc
tua tủa trên đó. Nhưng rồi tôi chỉ gật đầu, đổi
suy nghĩ sang dĩa bánh cuốn. Dù gì tôi cũng mới tan ca về.
"Cho chị thêm một dĩa bánh
cuốn chả và ly cà phê sữa." Tôi nói với cô chạy
bàn vừa đi ngang.
Thằng khỉ lại tiếp lời:
"Chị ăn khỏe nhỉ."
Tôi im lặng. Gã vẫn không buông
tha:
"Để em chọn màu xâm cho
chị. Đẹp đúng chuẩn luôn. Màu chân mày tiệp đúng với
màu lông của chị."
"Hả?"
"Thì xâm màu chân mày đúng
theo màu lông."
Tôi nhìn thẳng vào mắt gã.
Thằng khỉ chu miệng ra tục tĩu:
"Lông nâu, đúng không nào?"
Đồ quỷ. Thay vì tát vào mặt
nó, tôi lại ngồi đệt mặt ra, suy nghĩ xem lông mình
thực sự màu gì. Nâu hay đen? Ủa, sao mà nó biết. Đám
lông bên dưới đang từ từ dựng đứng lên. Không biết
bao nhiêu lần trong đời bác sĩ pháp y, tôi phải trực
tiếp khám nghiệm phần bên dưới cơ thể nạn nhân trong
những nghi án hiếp dâm. Chuyện lông lá người khác đối
với tôi chẳng là cái gì kỳ lạ, vậy mà nghe thằng quỷ
nhỏ này nói tôi thấy hoảng. Hèn gì mà các chiến sĩ
chống cộng mút mùa như ba tôi và chú Đặng chỉ chạm
mặt quân thù có một lần là buông vũ khí. Đầu hàng vô điều kiện.
Tôi nhất quyết ngồi thẳng dậy,
lạnh lùng trả đũa:
"Chọn không đúng thì tính
sao?"
"Chưa qua kiểm nghiệm thì
không thể cho kết quả chính xác."
Gã con trai lại nhích sang chiếc
ghế cạnh tôi, cười mơn trớn:
"Đang cô đơn đúng không? Ai
lại một mình vào quán ăn hai suất bao giờ. Để anh gọi
món xôi gà nhé."
"Tôi không ăn xôi."
"Ấy, ăn nếp vào cho nó
dính."
Tôi lắc đầu chịu thua, nói
theo kiểu của ba: chiến sĩ ta không chịu nổi hoả lực
của địch. Nhưng thay vì ghét nó, tôi lại thấy thằng
quỷ nhỏ này thật dễ mến. Nếu rảnh rỗi, tôi sẽ rủ
nó đi uống cà phê tâm sự, tìm cho nó một việc làm tử
tế. Mặt mày nó sáng sủa, biết đâu lại có cơ hội
học hành tiến thân. Tôi đổi giọng thân tình:
"Thôi. Không nói nhảm nữa
nghe. Em giúp chị tìm một người, được không?"
"Ai?" Nó nhanh nhảu hỏi.
"Ba của chị. Tên là Thành,
sáu mươi bốn tuổi."
"Thất lạc à?" Nó cười
cười.
"Ừ. Ba chị sang đây ăn phở,
cũng gặp một người như em, rồi bỏ nhà đi theo cô ta."
"Thế thì không tìm được
nữa. Bọn đấy đã múc được ai rồi thì chẳng nhả ra
nữa."
"Chẳng nhả ra là sao?"
"Là ngủ với nó hai lần,
thì nó giở giọng Nghệ ra."
Tôi lúng túng hỏi:
"Giọng Nghệ là giọng gì?"
"Là giọng khủng bố. Mày
không lấy, tao cắt đầu."
"Lấy cái gì?" Tôi lại
thấy rối rắm.
Nó không trả lời ngay mà hích
cùi chỏ lên khuỷu tay tôi, ánh mắt ra vẻ đắm đuối.
"Lấy nhau."
Tôi phì cười muốn vả lên má
nó một cái, nhưng rồi tôi đưa tay lên che miệng ngáp.
Nó ghé miệng vào tai tôi thì thầm mơn trớn:
"Em mệt à? Anh đưa em về
nhà nhé?"
Tôi lắc đầu, nghiêm khắc nhìn
nó bằng ánh mắt tôi vẫn dành cho thằng Cường, mỗi
khi thằng em tôi vật vã không chịu ngồi vào bàn học:
"Có muốn chị xách tai em lôi
đi không?"
Nó bỗng rụt đầu lại, cười
bẽn lẽn. Chắc ở nhà nó cũng có một bà chị hung dữ.
Tôi hỏi tiếp:
"Ở đây em có quen ai tên
Chấn không?"
"Chấn nào? Ở đây cơ man là
Chấn. Chấn râu. Chấn vẩu. Chấn giò thủ... Chấn -
Hằng, Chấn xây dựng..."
Tôi lưỡng lự một chút, bắt
lấy cái tên đầu tiên có vẻ gần gũi nhất:
"Chấn râu. Chấn có râu quai
nón tỉa rất kỹ. Cao ráo. Đẹp trai. Dân đua xe. Chạy
BMW X6 màu thép xám. "
Nó hơi sững lại nhìn tôi dò
xét, rồi ngập ngừng hỏi:
"Chấn Hà Nội hay Chấn Nghệ
An?"
"Chấn Hà Nội."
Thằng quỷ nhỏ lại nhìn tôi
thật kỹ. Ánh mắt nó dừng rất lâu ngay cạnh bàn, như
đang cố nhìn cho ra phần còn lại bên dưới. Rồi khuôn
mặt nó trắng bệt ra một cách khó hiểu.
"Ấy... chị chờ một tí
nhé."
Nó tất tả đi ra cửa, biến mất
giữa đám đông mua bán ồn ào trên hành lang. Tôi ngồi
một mình, cố ăn cho xong ăn dĩa bánh cuốn nóng. Hành
cháy, nước mắm pha, hai miếng chả lụa, hai miếng chả
quế... không còn ngon lành như tôi nghĩ. Ly cà phê phin đậm
đen tưởng giúp tôi tỉnh táo trong khi chờ đợi, không
ngờ lại làm tôi đổ mồ hôi, đâm ra nóng nảy khó
chịu. Dường như có cái gì không ổn trong căn phòng này.
Tôi ngước mắt nhìn quanh, những bộ mặt xa lạ vội vã
quay đi. Có ánh mắt nào phía sau lưng vẫn bám theo dai
dẳng. Tôi quay phắt lại. Người phụ nữ mặc áo đầm
dạ hội đỏ tía mào gà ngồi trong góc phòng. Cô ta bắt
gặp ánh mắt tôi, lúng túng nhìn lảng ra cửa sổ. Từ
khi quen Chấn, tôi cũng làm quen với kiểu mặc áo dạ hội
vào ban ngày của các bà các cô bên này. Họ thích khoác
lên người những bộ áo diêm dúa bất kể mưa hay nắng,
bất kể đi ăn phở hay đi mua rau cải. Ngay trong những
dịp đua xe cá độ, giữa ban ngày, trời nắng chang chang
mà họ cũng nhộn nhịp kéo tới, nào sườn xám, nào đầm
maxi, nào áo xẻ tận mông.
Người đàn bà đang nhìn đăm
đăm lên kính cửa sổ, bỗng quay phắt lại. Ánh mắt cô
ta hướng về phía sau lưng tôi thảng thốt như nhìn thấy
bóng ma. Đám khách trong nhà hàng cũng đồng loạt quay
sang, nhìn về cùng một phía. Tôi quay thẳng người lại,
nhìn ra cửa.
Một gã đàn ông thấp đậm,
tuổi khoảng gần sáu mươi, đầu trọc lóc, đang bước
vào giữa phòng ăn. Hai tên vệ sĩ đi sau, cao khoảng hai
mét, chỉ mặc phong phanh áo thun ba lỗ, thản nhiên khoe
bắp tay trần cuồn cuộn giữa tiết trời lạnh lẽo. Bọn
này người da trắng, râu quai nón đen dày, mũi vẹo mất
sụn. Tôi đoán chúng là dân đấm bốc Thổ Nhĩ Kỳ.
Người đàn ông đầu trọc tiến
thẳng về phía tôi. Cô bé chạy bàn đang khệ nệ bưng
bún ra, đụng phải đám người mới vào, cô gần như
phải nhảy vội qua một bên để tránh đường. Tô bún
nóng trên tay cô chao đi, đổ ào xuống vạt áo. Gã đàn
ông trọc đầu không thèm nhìn đến cô bé, chỉ hướng
về phía quầy nói cộc lốc: "Cho một trà sen."
Tôi nhìn cặp mắt hốt hoảng
của cô gái, nhìn bàn tay phỏng nước run rẩy cố giữ
thẳng tô bún, lòng bỗng tràn lên một cảm giác bất
nhẫn. Gã trọc đầu kéo ghế ngồi trước mặt tôi. Ánh
mắt gã không giấu giếm vẻ xăm xoi thô lỗ. Cái đầu
trọc lóc của gã làm tôi liên tưởng đến một hình ảnh
nào đó, nhưng nó thoảng qua mơ hồ không nắm bắt được.
Tôi lắc đầu, gạt bỏ suy nghĩ, nói thẳng thừng:
"Lẽ ra ông phải xin lỗi
người ta."
Gã đàn ông không thèm nhìn về
phía cô chạy bàn, gã chỉ nhếch mép cười, khoát tay ra
hiệu. Tên vệ sĩ có xăm hình nàng tiên cá trên bắp tay
trái, đi về phía cô gái. Gã móc túi lấy ra tờ hai mươi
euro màu xanh, dúi thẳng tờ giấy vô nách áo nạn nhân.
"Tiền bồi thường đây. Huề
cả làng nhé."
Kỳ lạ, thằng khổng lồ da
trắng này nói tiếng Việt rất sõi. Gã trọc đầu ngồi
trước mặt tôi lên tiếng:
"Nghe bảo, cô tìm cậu Chấn?"
Tôi gật đầu.
"Thằng Chấn về Việt Nam.
Ba tuần nữa thì sang." Người đàn ông dựa ngửa
người ra phía sau, nhìn tôi qua cặp mắt nửa khép.
Những kẻ này đã săn đuổi tôi
suốt mấy ngày qua, giờ đây đối diện với họ tôi
không thấy sợ hãi, chỉ thấy tức giận.
"Ông có chắc không? Ông có
biết chắc người tôi tìm là ai không?" Tôi xẵng
giọng.
"Chắc. Tôi thấy cô đi với
cậu Chấn hai lần, vào dịp đua xe."
Như có ai đấm vào bao tử tôi.
Đám đồ ăn sắp dâng ngược lên cuống họng. Tôi nhìn
sững cái đầu trọc bóng loáng, nhưng không sao nhớ nổi,
mình có gặp người đàn ông này hay chưa. Bao quanh Chấn
luôn có nhiều người, nhưng lão này có một vẻ chững
chạc, kẻ cả rất đặc biệt. Lẽ nào đã gặp rồi mà
không nhận ra. Cái đầu trụi lũi bóng loáng như xoay vòng
trước mắt tôi. Rõ ràng hình ảnh này gợi lên một liên
tưởng cụ thể nào đó. Tim tôi bỗng nhói đau. "Mạ".
Liên tưởng kết nối với hình ảnh của mạ.
"Các ông muốn gì?" Tôi
không kiềm nổi, gần như hét lên.
Người đàn ông thoáng chút bối
rối.
"Thằng Chấn không nói với
cô hay sao?"
"Nhờ ông nói lại với anh
ta. Hãy để cho tôi yên. Giữa tôi và anh ta chẳng dính
líu gì với nhau."
Khuôn mặt người đàn ông hơi
cau lại.
"Không ngờ thằng này cư xử
quá tệ với cô. Nó chỉ đẻ thêm việc cho người khác.
Cô về đi, tôi sẽ gọi điện báo cho nó biết."
"Ông không thể gọi điện
cho anh ta. Tôi biết Chấn ngồi tù từ ba tuần nay."
"Ừ. Thằng đấy kể như
lãnh án chung thân." Người đàn ông bỗng phì cười.
Hai tên vệ sĩ phía sau cũng toét miệng cười.
Tôi choáng váng đứng dậy. Dường
như cả quán đang toét miệng ra cười. Bọn người mang
bộ mặt ngây ngô lam lũ này chẳng phải là thực khách
bình thường.
"Để tôi thay cô vả vào mặt
nó." Người đàn ông nói thêm.
"Tôi sẽ báo cảnh sát."
Ánh mắt người đàn ông tối
xầm lại:
"Cô không cần làm ầm ĩ như
thế"
"Tôi cảnh cáo ông. Tôi sẽ
báo tin cho cảnh sát."
"Đừng có kéo cảnh sát vào
chuyện cá nhân. Nếu có hậu quả thì ngồi đây cùng
giải quyết." Gã gầm gừ. Cái đầu trọc bắt đầu
đỏ ửng lên.
Tôi chống hai nắm tay lên bàn,
thì thầm đau khổ:
"Hãy để cho gia đình tôi
yên."
Gã đàn ông lưỡng lự quan sát
tôi, rồi chậm rãi gật đầu.
Tôi hoàn toàn không biết gã là
ai. Một cái gật đầu chẳng xác nhận được điều gì.
Nhưng tôi không còn gì để nói thêm.
Ở quầy tính tiền, cô bán hàng
người miền Trung nói rặt thổ ngữ, lại lí nhí thật
khó nghe. Tôi nhét tờ năm mươi euro xuống khay nước rồi
bỏ đi. Cô bán hàng la lên the thé, hình như là gọi tôi
lấy tiền thối.
Nhiều tiếng la the thé đuổi
theo tôi đến tận cửa. Những tiếng cười kỳ dị bỗng
nổi lên trong đầu. Tôi muốn hóa điên. Cái đầu trọc
lóc và hình ảnh của mạ có mối liên hệ gì?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét