Thứ Sáu, 31 tháng 5, 2013

Chương 38: Cô Năm blog - Hành quyết trong ruộng dưa


Hai bà cháu quanh quẩn vùng Chân Phễu mất bảy ngày, mò từng bờ đá, từng gốc cây, cũng không tìm thấy điều gì khác lạ. Nước từ Long Hồ đổ xuống Tiểu Hồ qua đoạn Chân Phễu hẹp bị dồn nén lại, tung bọt trắng xoá, mờ mịt cả một vùng không gian. Nước lại rất ấm, dường như có mạch nước nóng từ lòng đất phun lên. Chính điều đáng ngờ này giữ chân hai bà cháu lại Chân Phễu suốt một tuần. Núi rừng bên ngoài đã trở lạnh dữ dội, cây bắt đầu trơ lá đen đúa khẳng khiu, nhưng quanh vùng Chân Phễu cây cối vẫn xanh tươi trong vùng khí hậu ấm áp khác thường.
Nửa đêm hôm đó, mệt mỏi sau một ngày lùng sục, bơi bè ra tận giữa dòng nước, ngã lăn ra ngủ say bê bết. Trong giấc mơ vẫn là nỗi ám ảnh khủng khiếp khi bè tre mong manh bị kéo ra giữ vùng nước xoáy dữ dội. Phải khó khăn lắm, ngã với Nặc tử mới chống được bè vô bờ. Đang trong cơn mơ vật lộn với sóng nước, bỗng đâu có ai thúc vô vai, liếm lên mặt. Ngã giật mình tỉnh ngủ, nhảy nhổm lên. Dưới ánh trăng cái bóng to lớn đen đúa của Ngộ Năng hiện ra một đống lù lù, hai con mắt cháy đỏ, hàm răng nhe ra. Trư Bát Giới giựt đứt dây cột cổ từ hồi nào, nó lại kêu khịt khịt thúc cái mỏ ướt lên mặt ngã. Ngã ngạc nhiên hỏi nhỏ:
– Có chuyện gì?
Ngộ Năng nghếch mỏ về phía bờ đá, lông cổ xù lên rất dễ sợ. Ánh sáng xanh ma quái hắt lên sau rặng cây thành một đường viền nhợt nhạt. Biết có chuyện bất thường, ngã tới bên ổ lá khều vai Nặc tử. Nó trở mình lảm nhảm mấy câu rồi hoảng hốt bò dậy.
– Có chuyện gì?
Ngã chỉ tay về phía bờ đá:
– Ánh sáng màu xanh của đoàn thuyền ma lại xuất hiện.
Nặc tử tỉnh ngủ tức thì. Ngã quay sang dặn họ Trư ở lại coi chừng hành lý rồi cùng với Nặc tử thận trọng tiến ra bờ đá.
Sương mù bao phủ mịt mùng. Mấy đốm sáng nửa xanh nửa đỏ lập loè ẩn hiện trong màn sương như đom đóm. Ngã vận nội công nhìn kỹ về phía hồ lớn. Bóng đoàn thuyền của Âm Binh Tả Sứ dần dần hiện ra, dập dềnh trôi về phía Chân Phễu. Chỉ kỳ lạ một điều, không có tiếng đàn bát nhị kéo theo. Ngã đoán, lần này bọn Âm Binh Tả Sứ hành quân bí mật, tránh mọi sự chú ý của người ngoài nên chúng chỉ kéo đi âm thầm. Nặc tử thì thào:
"Bà Năm có thấy gì không?"
"Thuyền Trừng Giới Trại sắp sửa trôi ngang qua đây."
"Chắc tụi nó bám theo mình xuống tới đây."
"Bây giờ mình bám theo tụi nó."
"Hê. Bà Năm nói thiệt hay chơi."
"Ta mà giỡn chơi lúc này thì quả là loại già mất nết. Tụi Âm Binh bám theo mình tới Long Hồ nhưng có thể đã tìm ra đường vô Địa Phủ trước mình. Tụi này pháp thuật vô thường mà đi trước một bước thì bà cháu mình kể như chẳng còn cơ hội nào để tìm ra Anh Cả. Chi bằng cứ bám theo tụi nó coi thử."
"Tụi nó đi thuyền, mình đi bộ lại chẳng biết đường xá thì bám làm sao?"
Khi đó con thuyền đầu tiên trôi ngang tới ghềnh đá nơi hai bà cháu núp. Từ ghềnh đá xuống mặt nước chỉ khoảmg hơn năm mét. Thành ra con thuyền đóng bằng ván hòm gần như trôi ngang trước mặt ngã. Cột buồm lớn gãy ngang như vừa qua cơn bão dữ. Dây thừng treo lủng lẳng như dây thòng lọng lại chẳng có mảnh buồm nào trừ mấy mảnh cờ tang đen trắng rách nát tả tơi phất phơ bay. Trước mui thuyền có để dĩa dầu phọng cháy leo lét, màu xanh lợt lạt toả ra từ đó. Lạ một nỗi ngọn đèn cháy trong gió mà vẫn không tắt hay cháy bùng lên, lại cứ leo lét ảm đạm mà trôi đi. Con thuyền không có bóng người lái, cũng như không có một tiếng động nào của sự sống vọng ra. Cửa sổ khoang thuyền che kín mít màn trắng, dù là vải sô mỏng rách tả tơi nhưng nhìn vô cũng không thấy được gì. Mấy làn khói trắng không biết từ đâu ra, heo hắt bám trên mui thuyền. Ngã gửi tin sang Nặc tử:
"Mình chuẩn bị nhảy xuống thuyền."
Nặc tử trợn mắt nhìn sang.
"Thuyền nào? Tiểu bối chỉ thấy sương mù mịt, làm sao mà nhảy?"
"Ngươi cứ nắm chặt tay ta mà nhảy xuống."
Nặc tử nhổm người lên, lùi dần ra phía sau.
"Tiểu bối không đi theo đâu."
Khi đó, con thuyền thứ nhất đã trôi qua, tiến dần vô Chân Phễu bỗng nhiên rồi chìm dần xuống nước. Chẳng mấy chốc mà nó biến mất chẳng để lại dấu vết gì ngoài một cụm bụi nước trắng đang trào lên. Rõ ràng bên dưới mặt hồ này có một dòng thuỷ lưu nào khác. Con thuyền thứ hai lững thững tiến vô ghềnh đá. Ngã sốt ruột nghĩ, nếu cứ đôi co với thằng nhát gan này thì cả đoàn thuyền trôi qua hết thì kể như chuyến này tới Long Hồ là công toi. Ngã liền thi triển Cầm nã thủ nắm ngay huyệt Đại lăng trên cổ tay nó, lôi nó đứng dậy. Vừa khi mũi thuyền tiến tới ngang ghềnh đá bên dưới, ngã nắm tay Nặc tử kéo ra, quát lên một tiếng.
"Nhảy."
Cả người Nặc tử cứng đờ như khúc gỗ, ngã gần như phải xốc nó phi thân xuống mũi thuyền. Hai bà cháu mất đà té ngay trên sàn, con thuyền chao đi dữ dội. Ngã chưa kịp trấn tĩnh đã lăn tuốt qua cửa khoang thuyền. Nặc tử nằm bò trên sàn, hai tay quờ quạng mò mẫm tìm ngã như thằng mù, mặt nó tái xanh kinh hãi tột độ. Ngã biết nó không nhìn thấy gì, nên nắm tay nó lôi dậy.
"Nhà ngươi cứ bình tĩnh. Tụi mình đang ở trên thuyền Tả Sứ."
Nặc tử nói như khóc.
"Bà Năm có thấy gì không?"
"Ta chẳng thấy gì hết. Con thuyền trống không."
Đó là ngã nói láo cho nó đỡ sợ, chứ ngã vừa đảo mắt nhìn quanh đã nổi hết da gà. Trong khoang thuyền kín, từng dãy quan tài xếp ngay ngắn, phía trước có đặt bài vị và lư hương. Mấy cây nhang đang cháy toả khói heo hắt. Có tất cả chín cái quan tài. Nặc tử bỗng bật nói.
"Có mùi nhang."
Khi đó ngã mới biết, tuy nó không nhìn thấy nhưng vẫn nghe thấy và ngửi được. Ngã trấn an nó.
"Có lư hương ở giữa khoang thuyền. Nhà ngươi ngồi yên trong góc nhà, đừng đi đâu, mọi chuyện cứ để mặc ta hành sự."
Nặc tử không cãi tiếng nào, nó lặng thinh ngồi co ro trong góc thuyền, khuôn mặt tái xanh căng thẳng tột độ. Bàn tay nó cầm lăm lăm cây kiếm, mà mũi kiếm cứ rung lật bật.
Ngã tiến tới trước dãy quan tài, cung kính vái lễ, xin người quá cố tha thứ cho ngã chuyện đường đột lên thuyền. Ngã chưa kịp dứt lời thì con thuyền tròng trành dữ dội rồi rung mạnh. Nước bắn tung toé bên mạn thuyền, tràn từng đợt vô khoang. Ngã nhìn ra bên ngoài, chỉ thấy bụi nước mù mịt như một bức tường trắng. Con thuyền như tuột xuống cái dốc sâu, xoay vòng vòng rồi trôi vô một vùng tối tăm. Nặc tử nói như khóc.
"Có chuyện gì? Bà Năm ơi."
"Có chuyện gì đâu. Thuyền trôi qua dòng thuỷ lưu khác, chắc là chuyển hướng vô Địa Phủ."
Nặc tử không hỏi gì thêm, khuôn mặt nó từ chỗ hoảng sợ chuyển qua cam chịu, nhẫn nhịn, thiệt là tôi nghiệp. Ngã ân cần nói thêm.
"Nhà ngươi đừng sợ, đã có bà Năm. Bà Năm với Mã Tiền là chỗ quen biết, Âm Binh chẳng nỡ làm khó dễ gì đâu."
Ngã vô tình nhắc tới Mã Tiền thì bất chợt cũng giật mình. Trên thuyền này không thấy bài vị của Mã Tiền, có khi gã đi ở thuyền trước. Mà chuyện này cũng khó nói, Mã Tiền tên thật là gì, người đời chẳng còn mấy ai biết. Có đọc qua bài vị cũng không đoán được. Chỉ có điều, nếu họ Mã không đi cùng thuyền, lỡ có chuyện gì xảy ra thì chẳng ai che chở cho hai bà cháu. Hơn nữa, bọn Âm Binh đã tìm đường vô tới Địa Phủ thì tụi nó cũng không cần ngã và Nặc tử nữa. Ngã nghĩ tới đó thì mới biết ra sai lầm của mình, liền mắn tay Nặc tử kéo ra cửa khoang, tránh xa mấy cái quan tài.
Lúc này, mắt ngã đã quen dần với bóng tối, nhờ ánh đèn dầu phọng leo lét đầu mũi thuyền mà ngã nhìn ra, con thuyền đang trôi qua một hang động. Hai bên là vách đá đen đúa hắt màu xanh yêu mị. Chừng được hơn mười phút thì phía trước có ánh sáng lấp loáng. Con thuyền trôi chậm lại rồi dừng hẳn. Cái bóng thuyền phía trước lờ mờ hiện ra. Ngã bước ra mũi thuyền đảo mắt nhìn quanh. Mấy con thuyền phía sau cũng từ từ kéo tới. Hoá ra cả đoàn thuyền tấp lại chờ nhau ở đây. Có lẽ đây là đoạn cửa hang, cả đoàn thuyền tụ lại để cùng tiến vô chỗ xung hiểm.
Sàn thuyền tròng trành một chút rồi con thuyền chuyển dịch về phía trước, đi ra khỏi cửa hang. Bên ngoài màn trời tối thăm thẳm lác đác sao. Ánh sáng loang loáng phía trước càng lúc càng hiện rõ. Ngã vận nội công cố nhìn đi xa nhưng cũng không thấy được gì. Ngã liền vô cửa khoang lôi Nặc tử ra.
"Nặc tử, ngươi có mắt tốt, ráng nhìn về phía trước xem thử. Có thấy ánh sáng gì không?"
Tiếng Nặc tử run run trả lời:
"Tiểu bối thấy ánh đuốc lấp loáng trên sông. Hình như có cây cầu đá bắt ngang."
Nó chờ một chút cho thuyền tới gần hơn rồi nói tiếp.
"Cây cầu đá rất kiên cố, khoảng năm nhịp, chạm trổ lồi lõm. Trên cầu đá là những trạm canh đốt đuốc. Bóng tụi Sùng binh thấp thoáng. Hình như sương mù hay khói trắng đang tràn về phía đó."
Ngã nghe Nặc tử nói vậy thì đoán, bọn Âm Binh trên chiến thuyền phía trước đã bắt đầu tấn công lên trạm canh. Trong bóng đêm bỗng vang lên mấy tiếng la rùng rợn rồi đột ngột tắt lịm. Ánh đuốc trên trạm canh vụt tắt, sau đó chừng vài phút lại lác đác cháy. Khi thuyền tới gần hơn, ngã mới thấy rõ cây cầu đá kiên cố bắt ngang qua sông. Trên cầu tịnh không có bóng dáng ai. Nặc tử chụp áo ngã, chỉ tay xuống nước. Từ phía cầu đá, xác Sùng binh vất vưởng trôi ngược lại. Có khoảng hơn mười cái xác trắng hếu.
Đoàn thuyền Âm Binh Tả Sứ tiếp tục trôi sâu vô lãnh địa Sùng Chúa. Mấy cây cầu đá càng lúc càng hoành tráng, kéo dài xa thẳm về hai bên bờ như những bức tường thành. Đuốc thắp từng dãy, bốc lửa rừng rực. Xác Sùng binh càng lúc càng nhiều, trôi trắng cả khúc sông, lẫn trong đám áo đen dập dềnh của bọn Hắc Kỳ. Một cái xác Hắc Kỳ không đeo khăn bịt mặt trôi chậm chậm bên mạn thuyền. Hắn bị hút hết sinh khí nên khuôn mặt trắng nhợt quắt queo lại, hai con mặt lồi lên trên lớp da khô đượm vẻ kinh hãi không bút mực nào tả xiết.
Nặc tử đứng trong sương mù chỉ nhìn thấy được một nửa sự việc nên càng thêm hoảng sợ.
Qua tới trạm canh thứ tư, tiếng kẻng báo động bỗng vang lên dồn dập. Kéo theo sau là tiếng tù và rúc lên từng hồi thảng thốt. Ngã đoán là, lính Địa Phủ đã phát hiện ra sự tấn công của Trừng Giới Trại. Chiến thuyền phía trước đột ngột dừng lại, tiếng đàn bát nhị từ đó vang lên sầu thảm chết chóc như một mệnh lệnh.
Ngã chưa kịp định thần đã nghe trong khoang thuyền có tiếng động rọt rẹt. Ngã vội vàng đẩy Nặc tử qua bên, nghiêng người nhìn qua cửa khoang. Mấy cái quan tài đang lắc lư kỳ dị. Cái nắp bên trên từ từ mở ra. Mùi tử khí tràn tới nồng nặc làm ngã choáng váng, chưa kịp nói với Nặc tử lời nào, ngã đã té xuống sàn ngất đi không còn biết gì nữa.

*

Khi ngã chập chờn tỉnh dậy, trăng treo trên cao vàng vọt toả bóng. Ngã thấy mình nằm ngay cửa khoang thuyền, Nặc tử cũng nằc gần đó nhắm mắt mê man. Biết có chuyện bất thường, ngã vùng dậy chạy vô khoang thuyền. Mấy cái quan tài đều mở nắp, bên trong là vải lịm, áo gối của người chết. Chẳng có cái tử thi nào. Mùi hương mạn đà la thoang thoảng trong không trung. Ngã phóng ra cửa nắm tay Nặc tử bắt mạch. May quá, thằng nhỏ còn sống. Nó mở mắt ngơ ngác nhìn ngã, lại hỏi.
– Có chuyện gì?
Ngã nghiến răng nói:
– Tụi Âm Binh đã rời thuyền kéo lên bờ. May nhờ có Mã Tiền, nếu không thì bà cháu mình thành xác khô.
Con thuyền lúc này đang thả neo, chỉ đong đưa theo sóng nước chứ không trôi đi. Trên bờ lửa cháy ngất trời, lẫn trong tiếng quạ trắng kêu gào là tiếng la hét kinh hoàng, tiếng vũ khí loảng xoảng vọng tới. Ngã đoán, tụi Phạm Binh Hữu Sứ cũng đã kéo tới hỗ trợ cho quân Tả Sứ. Nặc tử cũng đã tỉnh táo, nó mò mẫm đứng lên nhìn quanh rồi chặc lưỡi:
– Không ngờ Địa Phủ nguy nga tráng lệ tới cỡ này.
Dưới ánh trăng, đền đài cung điện hiện ra chập chùng. Nhiều chỗ đang bốc cháy dữ dội. Ngã quay sang Nặc tử, nói:
– Họ đã đi trước, đang phá nát Địa Phủ để tầm thù. Bà cháu mình đã lỡ mất dịp tìm ra Anh Cả, bây giờ có ở đây cũng chẳng ích gì. Nặc tử, ta ra khỏi chỗ này thôi.
Nặc tử không chờ ngã nói thêm, nó lật đật theo ngã nhảy lên bờ. Vừa lên tới mặt đất, nó quay lại bờ sông, vừa kéo lưng quần vừa hàm hồ chửi:
– Mấy thằng chết toi chưa đầu thai. Thuyền bè chẳng ra cái thể thống gì mà cũng đòi rước quan lớn đi.
Ngã nhìn bộ tướng nó, bỗng nhiên tức cười, liền doạ:
– Nhà ngươi chửi cho lớn lên. Tụi Âm Binh nghe được thì bắt ngươi lại, nhốt luôn dưới thuyền. Mỗi ngày xin tí dương khí.
Nặc tử nín khe, hạ giọng nói:
– Bây giờ biết đường nào mà ra. Có khi đang ở trong chốn Âm Ty Địa Ngục nào.
Ngã ngước lên nhìn trời:
– Có mặt trăng phía trên. Chỗ này nhất quyết không phải là Âm Phủ. Ta cứ nhắm hướng trăng tìm đường ra thôi.
Hai bà cháu theo hướng mặt trăng đi tới. Lúc này, lòng ngã bồi hồi như vừa mất mát một cái gì đó. Con đường dài khó nhọc tưởng là sẽ tới đích bỗng nhiên rồi hoá công toi. Nặc tử đi bên ngã cũng cúi đầu không nói gì. Qua khỏi cổng thành ngổn ngang xác chết và cung tên giáo mác, cánh đồng hoang vắng hiện ra. Tiếng la hét huyên náo lúc này đã ở lại phía sau. Ngã với Nặc tử không theo đường chính mà băng qua đồng cỏ dại, được chừng nửa giờ thì gặp con đường mòn cắt ngang. Nặc tử cúi xuống mặt đường xem xét rồi nói:
– Bà Năm nhìn coi. Vết bánh xe còn rất mới.
Lòng ngã đang hụt hẫng chán nản lắm, chẳng thiết tha gì, nhưng nghe Nặc tử nói vậy thì cũng đứng lại xem qua loa. Trên con đường đọng bùn, vết bánh xe để lại xem ra vẫn còn ướt tươi. Ngã thò ơ hỏi:
– Ừ. Vết xe còn mới. Thì có sao đâu? Tụi trong thành bị đánh tả tơi, bỏ chạy tán loạn là thường.
Nặc tử lắc đầu:
– Âm Binh Tả sứ tấn công bất ngờ lại lặng lẽ chớp nhoáng. Không một kẻ nào trong Địa Phủ có đủ thời gian trốn thoát. Chỉ trừ khi, ai đó luôn chuẩn bị cho mình một con đường bí mật, xe cộ túc trực sẵn sàng, vừa có biến là lập tức trốn đi.
Ngã giật mình, hỏi:
– Ngươi nghĩ, đây là xe của Sùng Chúa?
Nặc tử gật đầu:
– Chính hắn.
– Mình đuổi theo liền, may ra còn kịp.
Hai bà cháu nói tới đó thì thi triển khinh công cắm đầu chạy theo hướng bánh xe. Khi con đường dẫn tới ngang vùng sình lầy thì dấu bánh xe đột ngột biến mất. Chỗ này năng lác mọc cao mù mịt, bên dưới là lớp bùn nhão nên chẳng để lại dấu vết gì. Nặc tử nói:
– Tụi nó băng đồng lầy để xoá dấu rồi. Chẳng biết đi về hướng nào mà đuổi.
Vừa lúc đó, ở phía tây có tiếng chim heo kêu éc éc như heo bị chọc tiết. Ngã la lên:
– Điềm rất xấu. Sắp có kẻ tiêu mạng ở đó.
Hai bà cháu phóng chạy về phía tây. Qua vùng đất thấp là cánh đồng dưa. Vết xe càn qua đồng kéo theo mấy dây dưa chằng chéo bị xéo nát, hiện rõ mồn một dưới ánh trăng. Cánh đồng dưa đang mùa thu hoạch, trái to bằng đầu người, tròn trịa đen bóng. Nhiều trái dưa bị cán bể nát tuôn ra màu đỏ ghê rợn. Ngã nhìn máu dưa đỏ loè loẹt trên đồng, bất giác nói.
– Đây là điềm chết chóc.
Ngã với Nặc tử vượt đồng dưa, bám theo vết xe. Con chim heo đậu trên cây chò chỉ bên đường vừa giật mình bay lên, để lại tiếng kêu éc éc chết chóc. Mấy con chim heo khác đậu lù lù trên cành cây khô tròn mắt nhìn xuống. Không gian chìm trong bóng đêm lạnh lẽo và yên ắng, nhưng thần kinh ngã đang căng ra, cả cơ thể nóng rực ngột ngạt. Hai bà cháu lội qua con suối cạn cây cối um tùm, phía trước mắt là chiếc xe ngựa nằm chỏng trơ, không người không ngựa. Xa xa, căn nhà lá nằm cô quạnh giữa đồng, không ánh đèn. Ngã với Nặc tử thận trọng tiến lại gần chiếc xe ngựa. Đây là loại xe tứ mã, nhưng bốn con ngựa đều đã biến mất. Chắc bọn này bỏ xe lại, cỡi ngựa đi cho nhanh. Nặc tử bỗng khều ngã, chỉ về phía căn nhà. Ngã không biết nó phát hiện ra điều gì, cũng không kịp hỏi, chỉ lật đật bám theo.
Nặc tử lăm lăm kiếm, băng qua ruộng dưa, vòng ra phía sau nhà rồi tiến sát dần vô đó. Có tiếng rên rỉ kỳ dị trong gian nhà. Nặc tử nghe ngóng một lúc rồi cất tiếng run run hỏi:
– Có ai trong đó không?
Không ai trả lời, nhưng tiếng rên có vẻ lớn hơn và dường như là đau đớn khủng khiếp lắm. Nặc tử đẩy cánh cửa tre, thận trọng bước vô. Bên trong căn nhà nhỏ tối om. Trăng soi qua cửa sổ, in bóng lên mấy cái thúng và mớ bao tải cũ. Con vật nằm giữa đống bao tải máu me đầm đìa đang quằn quại rên xiết. Tiếng rên của nó trong đêm vắng nghe thật là ghê rợn, nửa người nửa thú. Ngã đứng chôn chân ở cửa. Nặc tử tới gần bỗng la lên thất thanh:
– Trời ơi. Kẻ nào hành xử tàn độc như vầy?
Ngã bước tới bên nó. Dưới ánh trăng, kẻ nằm trong đống bao tải là một người đàn ông bị cắt hết tay chân. Máu me lênh láng, nhưng hình như đã được rịt sơ thuốc lên nên gã vẫn còn sống ngoi ngóp. Ngã rùng mình kinh sợ hỏi:
– Nhà ngươi là ai?
Người đàn ông há miệng định nói điều gì, máu từ miệng bỗng ộc ra xối xả. Ngã hét lên ghê rợn:
– Trời ơi. Kẻ nào hành xử tàn độc như vầy?
Ngã đoán là, người này đã bị cắt tay chân và bị cắt luôn lưỡi. Hai con mắt gã nhắm kín, dù không chảy máu nhưng xem ra cũng đã bị hạ thủ cho mù loà. Đó là một người đàn ông niên kỷ có lẽ quá thất tuần. Tấm áo gấm vàng thêu rồng phượng loè loẹt tấm đẫm máu. Nặc tử cúi xuống hỏi nhỏ:
– Nhà ngươi bị thủ hạ cướp xe rồi bỏ lại đây, đúng không?
Người đàn ông rên rỉ đau đớn, cả thân hình co giật liên hồi, bỗng nhiên rồi bất động. Dường như là lão ta đã ngất đi. Ngã rùng mình, nói:
– Nặc tử. Ta nên cho hắn một nhát kiếm nhân từ. Tình trạng này không cứu chữa gì được nữa đâu.
Nặc tử bỗng nhiên lùi lại, nó ghê sợ nhìn ngã:
– Bà Năm biết ông ta là ai rồi chứ gì?
Ngã ngậm ngùi gật đầu:
– Đó là kẻ mà ta bỏ bao công sức đi tìm để đòi lại món nợ cho ông Tám với thằng Sỏi.
– Vậy bà Năm còn chần chờ gì nữa. Cho lão ta một nhát cuốc là xong món nợ.
Ngã lắc đầu, bỗng dưng rồi cũng lùi lại:
– Ta không phải là kẻ giết người để rửa hận. Chuyện giết người tàn ác năm xưa, ta chỉ mong đưa ra ánh sáng để oan hồn người xấu số ngậm cười nơi chín suối. Gặp oan gia trong tình trạng thảm khốc này, có hỏi gì hắn cũng không trả lời được thì làm sao luận tội cho minh bạch. Dĩ trực báo oán, quyết không dĩ oán báo oán.
Thân hình người đàn ông lại bắt đầu nhúc nhích, tiếng rên rỉ đứt quãng từng khúc nghe thảm khốc dị thường. Nặc tử đảo mắt nhìn, bỗng nhiên rồi la lên hăm hở kỳ dị:
– Ta cho ngươi một nhát kiếm kết liễu mọi oán thù.
Bàn tay nó vung kiếm lên, không chém xuống liền mà hoa ngang một vòng như múa đồng. Ngã đoán là nó bị ma nhập, quyết giết người rửa hận. Ngã hoảng hốt nhắm mắt, đọc đại mấy câu kinh thoáng qua trong đầu, cũng không rõ là kinh gì.
Bỗng đâu có tiếng gió rít, tiếng kim loại va chạm dữ dội. Ngã hết hồn mở mắt ra. Một người đàn bà mặc đồ trắng, che khăn mặt trắng xuất hiện từ bao giờ trong gian nhà. Cây kiếm của Nặc tử bị đánh rơi xuống đất. Thằng nhỏ không lượm kiếm lên mà nhìn chăm chăm vô Bạch Y nữ nhân, rồi nói chăm bẳm:
– Cuối cùng rồi nhà ngươi cũng xuất hiện. Ta mà không doạ lớn tiếng thì không dụ được ngươi vô đây.
Bạch Y nữ nhân hừ một tiếng rồi liếc ngang sang ngã, không thấy thưa gửi gì. Ngã đang khó chịu thì nghe tiếng Nặc tử truyền âm loang thoáng bên tai. "Con mẹ áo trắng này bám theo bà cháu mình từ Núi Răng Sói." Ngã nghe vậy thì cười nhạt:
– Nhà ngươi bám theo bọn ta bao lâu nay, bây giờ mới xuất đầu lộ diện. Không biết ngươi với con người nửa sống nửa chết kia có quan hệ gì?
Nữ lang lầm lì tiến gần tới bên cái thây người đang thoi thóp, ngã còn chưa kịp có phản ứng gì thì ả đã xuất chiêu thần tốc. Trong chớp mắt, mảnh áo trên ngực phế nhân bị xé toạt. "Rẹt". Trên khoảng ngực bê bết máu lộ ra sợi dây chuyền không rõ bằng vàng hay bạc. Mặt dây chuyền tuy vây máu nhưng vẫn hiện rõ hình tròn lưỡng nghi, nửa đen nửa đỏ. Nữ lang áo trắng thò tay chụp tới, giật đứt sợi dây chuyền. Ả đưa mặt sau vòng lưỡng nghi ra dưới ánh trăng xăm soi. Ngã định thần tập trung công lực nghiêng đầu qua nhìn lén, chỉ thấy trên đó có hàng chữ nhỏ li ti, nhưng không rõ là chữ gì.
"Soạt."
Bàn tay lại chụp lên vai phế nhân, thủ pháp nhanh nhẹn dị thường. Khoảng vai trái vai lộ ra giữa đường vải rách. Nữ lang cúi đầu nhìn chăm chăm khoảng vai và khuôn mặt phế nhân. Bất ngờ thị bật cười thê thảm. Vừa quay sang ngã, nữ lang đã đổi giọng lạnh lùng nói:
– Tại hạ xin mạn phép, đưa gia gia ra khỏi chỗ này.
Ngã giật mình, hoá ra người này là con gái của Anh Cả. Khuôn mặt nữ lang che kín khăn trắng, bóng tối lại đọng trên quầng mắt, nên ngã không sao đoán được sắc diện. Nhưng theo kiểu nói của thị, dù ngã có bằng lòng hay không, thị cũng quyết mang tên phế nhân kia đi. Ngã nén giận quay qua Nặc tử:
– Nhà ngươi có còn oán cừu gì với kẻ kia không?
Nặc tử lúng túng nói:
– Tiểu bối với lão ta chẳng có oán cừu gì riêng tư. Lão gây nên nghiệp nhân mà lãnh nghiệp quả như vậy kể như là gặp đủ báo ứng, bây giờ sống cũng như chết chẳng còn đủ sức hại ai. Mình cứ để cô Hoài Bắc mang lão ta đi thôi.
Nghe Nặc tử nói vậy, ngã mới biết, đó là con nhỏ Hoài Bắc, đứa con gái năm xưa đi với thằng Giang vô nghĩa địa tìm mộ Bảy Tốt. Ngã nhớ chuyện xưa thì động lòng nên hạ giọng nói nhã nhặn với nó:
– Từ lần gặp đó tới nay, thấm thoát đã hơn hai mươi lăm năm. Bao nhiêu chuyện bi thương xảy ra. Thôi, nhà ngươi cứ mang kẻ oan nghiệp kia đi khỏi chỗ này cho trọn nghĩa với kẻ có công sinh thành.
Con nhỏ Hoài Bắc không thèm trả lời, nó nhìn ra cửa sổ, cất tiếng khàn khàn gọi:
– Tiểu Cáp Mô, ngươi vô đây giúp ta một tay.
Ngã giật mình nghĩ thầm, hoá ra con nhỏ này là chủ nhân của Tiểu Cáp Mô. Nó cho thằng người cóc theo hầu hạ ngã bao lâu nay kể ra cũng là đứa có tình, chỉ vì gặp chuyện đau thương mà hành xử hơi kỳ quặc. Thôi thì bỏ qua cho nó. Không ngờ, Nặc tử lại hắng giọng:
– Thằng cóc khô đó bám theo bà Năm lâu nay là để dọ thám tin tức. Đợi nó vô đây, tiểu bối đá đít nó một cái cho bõ ghét.
Con nhỏ Hoài Bắc gọi tới lần thứ hai không thấy Tiểu Cáp Mô xuất hiện thì tỏ vẻ bồn chồn lo lắng lắm. Nặc tử bỗng lùi về phía cửa sau, kêu lên:
– Nguy rồi. Có chuyện…
Nó vừa nói tới ngang đó thì ngã nghe ngoài ruộng có tiếng quạ kêu. Con Hoài Bắc nhảy dựng lên, trong chớp nhoáng là rút kiếm ra khỏi vỏ. Ngã nhìn ra cửa sổ, bầu trời tối đen bên ngoài đang hoá ra vàng nghệ. Ngã xông tới nắm tay con Bắc, nói:
– Họ tới rồi. Ngươi không chống cự nổi đâu.
Bàn tay con Bắc gồng cứng lên trong tay ngã, hai cặp mắt nó nhìn ra cửa sổ đầy vẻ phẫn nộ. Ngã không biết con nhỏ này đã chạm trán Âm Binh Tả Sứ bao giờ chưa, nhưng thằng đồ đệ Cáp Mô của nó sợ tụi Âm Binh này hơn ai hết. Màu vàng ghê rợn bắt đầu tràn tới bên cửa sổ, tiếng quạ kêu như xé màng nhĩ. Ngã vội vàng nắm tay con Bắc kéo vô góc nhà bếp phía sau. Nó không chống cự mà loáng cái lạng tuốt ra phía sau lưng Nặc tử. Ba người ngồi lùi sát vô trong góc bịt tai bịt mắt lại.
Tiếng kêu khát máu rùng rợn vang lên khắp cánh đồng. Chừng khi sương tan, trăng hiện ra mỏng manh trên bầu trời, cánh đồng chìm trong hoang vu thinh lặng, ngã với Nặc tử mới mò vô lại trong nhà. Cái thây người nằm trên đống vải bố chỉ còn là cái xác khô quắp, teo tóp không còn chút máu. Con Bắc nhìn sững cái xác rồi kêu lên một tiếng không rõ nghĩa. Ngã còn chưa kịp an ủi tiếng nào, đã thấy nó phóng rẹt ra cửa sổ biến mất.
Ngã với Nặc tử cũng lật đật rời khỏi căn nhà u ám đó, kéo nhau đi như chạy khỏi ruộng dưa.
Sáng hôm sau, leo được qua vách núi phía tây thì đoạn Chân Phễu đã hiện ra trước mắt. Ngã nhìn lại khung cảnh hoang sơ bí ẩn của Long Hồ, lòng sao cứ thấy nặng nề không chịu nổi. Ngã thở dài quay qua nói với Nặc tử:
– Cái đoạn kết cục man rợ bi thảm này nằm ngoài ý muốn và sự tưởng tượng của ta, nó không hề làm sáng tỏ những điều oan khuất tức tưởi trong quá khứ, nó chỉ đẩy ân oán hận thù vô chỗ câm lặng ghê tởm.
Nặc tử cũng buồn bã trả lời:
– Tiểu bối cũng thấy cái đoạn kết này ghê tởm. Nhưng kết cục ra sao thì tốt đẹp? Chẳng lẽ đánh nhau tưng bừng một phen, vừa đánh vừa kể tội nhau ra, cuối cùng nhân danh công lý đâm cho kẻ ác nhân một mũi kiếm? Hay là cái kết cục bi hùng thống thiết như trong Lục Mạch Thần Kiếm? Tư cách của Anh Cả trong Miền Hư Ảo làm sao sánh được với Huyền Từ phương trượng, kẻ điềm nhiên thụ hình trước công chúng để giải quyết tội nghiệp.
Ngã nhớ tới tình cảnh thương tâm của con Hoài Bắc, động lòng nói:
– Oán thù đã chẳng giải quyết được gì, chỉ dám hy vọng ngày mai sẽ tốt đẹp hơn. Mình qua bên kia đón Ngộ Năng rồi tìm đường về lại Thổ Ty. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét