Hai bà cháu quanh quẩn vùng Chân Phễu mất bảy ngày, mò từng bờ đá, từng gốc cây, cũng không tìm thấy điều gì khác lạ. Nước từ Long Hồ đổ xuống Tiểu Hồ qua đoạn Chân Phễu hẹp bị dồn nén lại, tung bọt trắng xoá, mờ mịt cả một vùng không gian. Nước lại rất ấm, dường như có mạch nước nóng từ lòng đất phun lên. Chính điều đáng ngờ này giữ chân hai bà cháu lại Chân Phễu suốt một tuần. Núi rừng bên ngoài đã trở lạnh dữ dội, cây bắt đầu trơ lá đen đúa khẳng khiu, nhưng quanh vùng Chân Phễu cây cối vẫn xanh tươi trong vùng khí hậu ấm áp khác thường.
Nửa
đêm hôm đó, mệt mỏi sau một
ngày lùng sục, bơi bè ra tận
giữa dòng nước, ngã lăn ra ngủ
say bê bết. Trong giấc mơ vẫn là
nỗi ám ảnh khủng khiếp khi bè
tre mong manh bị kéo ra giữ vùng nước
xoáy dữ dội. Phải khó khăn lắm,
ngã với Nặc tử mới chống được
bè vô bờ. Đang trong cơn mơ vật
lộn với sóng nước, bỗng đâu
có ai thúc vô vai, liếm lên mặt.
Ngã giật mình tỉnh ngủ, nhảy
nhổm lên. Dưới ánh trăng cái
bóng to lớn đen đúa của Ngộ
Năng hiện ra một đống lù lù,
hai con mắt cháy đỏ, hàm răng nhe
ra. Trư Bát Giới giựt đứt dây
cột cổ từ hồi nào, nó lại
kêu khịt khịt thúc cái mỏ ướt
lên mặt ngã. Ngã ngạc nhiên hỏi
nhỏ:
– Có
chuyện gì?
Ngộ
Năng nghếch mỏ về phía bờ đá,
lông cổ xù lên rất dễ sợ.
Ánh sáng xanh ma quái hắt lên sau
rặng cây thành một đường
viền nhợt nhạt. Biết có chuyện
bất thường, ngã tới bên ổ
lá khều vai Nặc tử. Nó trở mình
lảm nhảm mấy câu rồi hoảng hốt
bò dậy.
– Có
chuyện gì?
Ngã
chỉ tay về phía bờ đá:
– Ánh
sáng màu xanh của đoàn thuyền
ma lại xuất hiện.
Nặc
tử tỉnh ngủ tức thì. Ngã quay
sang dặn họ Trư ở lại coi chừng
hành lý rồi cùng với Nặc tử
thận trọng tiến ra bờ đá.
Sương
mù bao phủ mịt mùng. Mấy đốm
sáng nửa xanh nửa đỏ lập loè
ẩn hiện trong màn sương như đom
đóm. Ngã vận nội công nhìn
kỹ về phía hồ lớn. Bóng đoàn
thuyền của Âm Binh Tả Sứ dần dần
hiện ra, dập dềnh trôi về phía
Chân Phễu. Chỉ kỳ lạ một điều,
không có tiếng đàn bát nhị
kéo theo. Ngã đoán, lần này
bọn Âm Binh Tả Sứ hành quân bí
mật, tránh mọi sự chú ý của
người ngoài nên chúng chỉ kéo
đi âm thầm. Nặc tử thì thào:
"Bà
Năm có thấy gì không?"
"Thuyền
Trừng Giới Trại sắp sửa trôi
ngang qua đây."
"Chắc
tụi nó bám theo mình xuống tới
đây."
"Bây
giờ mình bám theo tụi nó."
"Hê.
Bà Năm nói thiệt hay chơi."
"Ta
mà giỡn chơi lúc này thì quả
là loại già mất nết. Tụi Âm
Binh bám theo mình tới Long Hồ nhưng
có thể đã tìm ra đường
vô Địa Phủ trước mình. Tụi
này pháp thuật vô thường mà
đi trước một bước thì bà
cháu mình kể như chẳng còn cơ
hội nào để tìm ra Anh Cả. Chi
bằng cứ bám theo tụi nó coi thử."
"Tụi
nó đi thuyền, mình đi bộ lại
chẳng biết đường xá thì bám
làm sao?"
Khi
đó con thuyền đầu tiên trôi
ngang tới ghềnh đá nơi hai bà
cháu núp. Từ ghềnh đá xuống
mặt nước chỉ khoảmg hơn năm
mét. Thành ra con thuyền đóng bằng
ván hòm gần như trôi ngang trước
mặt ngã. Cột buồm lớn gãy ngang
như vừa qua cơn bão dữ. Dây thừng
treo lủng lẳng như dây thòng lọng
lại chẳng có mảnh buồm nào trừ
mấy mảnh cờ tang đen trắng rách
nát tả tơi phất phơ bay. Trước
mui thuyền có để dĩa dầu phọng
cháy leo lét, màu xanh lợt lạt toả
ra từ đó. Lạ một nỗi ngọn
đèn cháy trong gió mà vẫn
không tắt hay cháy bùng lên, lại
cứ leo lét ảm đạm mà trôi
đi. Con thuyền không có bóng người
lái, cũng như không có một tiếng
động nào của sự sống vọng
ra. Cửa sổ khoang thuyền che kín mít
màn trắng, dù là vải sô mỏng
rách tả tơi nhưng nhìn vô cũng
không thấy được gì. Mấy làn
khói trắng không biết từ đâu
ra, heo hắt bám trên mui thuyền. Ngã
gửi tin sang Nặc tử:
"Mình
chuẩn bị nhảy xuống thuyền."
Nặc
tử trợn mắt nhìn sang.
"Thuyền
nào? Tiểu bối chỉ thấy sương
mù mịt, làm sao mà nhảy?"
"Ngươi
cứ nắm chặt tay ta mà nhảy xuống."
Nặc
tử nhổm người lên, lùi dần
ra phía sau.
"Tiểu
bối không đi theo đâu."
Khi
đó, con thuyền thứ nhất đã
trôi qua, tiến dần vô Chân Phễu
bỗng nhiên rồi chìm dần xuống
nước. Chẳng mấy chốc mà nó
biến mất chẳng để lại dấu
vết gì ngoài một cụm bụi nước
trắng đang trào lên. Rõ ràng
bên dưới mặt hồ này có một
dòng thuỷ lưu nào khác. Con thuyền
thứ hai lững thững tiến vô ghềnh
đá. Ngã sốt ruột nghĩ, nếu
cứ đôi co với thằng nhát gan này
thì cả đoàn thuyền trôi qua hết
thì kể như chuyến này tới Long
Hồ là công toi. Ngã liền thi triển
Cầm nã thủ nắm ngay huyệt Đại
lăng trên cổ tay nó, lôi nó đứng
dậy. Vừa khi mũi thuyền tiến tới
ngang ghềnh đá bên dưới, ngã
nắm tay Nặc tử kéo ra, quát lên
một tiếng.
"Nhảy."
Cả
người Nặc tử cứng đờ như
khúc gỗ, ngã gần như phải xốc
nó phi thân xuống mũi thuyền. Hai bà
cháu mất đà té ngay trên sàn,
con thuyền chao đi dữ dội. Ngã chưa
kịp trấn tĩnh đã lăn tuốt qua
cửa khoang thuyền. Nặc tử nằm bò
trên sàn, hai tay quờ quạng mò mẫm
tìm ngã như thằng mù, mặt nó
tái xanh kinh hãi tột độ. Ngã
biết nó không nhìn thấy gì,
nên nắm tay nó lôi dậy.
"Nhà
ngươi cứ bình tĩnh. Tụi mình
đang ở trên thuyền Tả Sứ."
Nặc
tử nói như khóc.
"Bà
Năm có thấy gì không?"
"Ta
chẳng thấy gì hết. Con thuyền trống
không."
Đó
là ngã nói láo cho nó đỡ
sợ, chứ ngã vừa đảo mắt
nhìn quanh đã nổi hết da gà.
Trong khoang thuyền kín, từng dãy quan tài
xếp ngay ngắn, phía trước có đặt
bài vị và lư hương. Mấy cây
nhang đang cháy toả khói heo hắt. Có
tất cả chín cái quan tài. Nặc
tử bỗng bật nói.
"Có
mùi nhang."
Khi
đó ngã mới biết, tuy nó không
nhìn thấy nhưng vẫn nghe thấy và
ngửi được. Ngã trấn an nó.
"Có
lư hương ở giữa khoang thuyền. Nhà
ngươi ngồi yên trong góc nhà,
đừng đi đâu, mọi chuyện cứ
để mặc ta hành sự."
Nặc
tử không cãi tiếng nào, nó
lặng thinh ngồi co ro trong góc thuyền,
khuôn mặt tái xanh căng thẳng tột
độ. Bàn tay nó cầm lăm lăm
cây kiếm, mà mũi kiếm cứ rung lật
bật.
Ngã
tiến tới trước dãy quan tài,
cung kính vái lễ, xin người quá
cố tha thứ cho ngã chuyện đường
đột lên thuyền. Ngã chưa kịp
dứt lời thì con thuyền tròng trành
dữ dội rồi rung mạnh. Nước bắn
tung toé bên mạn thuyền, tràn từng
đợt vô khoang. Ngã nhìn ra bên
ngoài, chỉ thấy bụi nước mù
mịt như một bức tường trắng.
Con thuyền như tuột xuống cái dốc
sâu, xoay vòng vòng rồi trôi vô
một vùng tối tăm. Nặc tử nói
như khóc.
"Có
chuyện gì? Bà Năm ơi."
"Có
chuyện gì đâu. Thuyền trôi qua
dòng thuỷ lưu khác, chắc là
chuyển hướng vô Địa Phủ."
Nặc
tử không hỏi gì thêm, khuôn mặt
nó từ chỗ hoảng sợ chuyển qua
cam chịu, nhẫn nhịn, thiệt là tôi
nghiệp. Ngã ân cần nói thêm.
"Nhà
ngươi đừng sợ, đã có bà
Năm. Bà Năm với Mã Tiền là
chỗ quen biết, Âm Binh chẳng nỡ làm
khó dễ gì đâu."
Ngã
vô tình nhắc tới Mã Tiền thì
bất chợt cũng giật mình. Trên
thuyền này không thấy bài vị
của Mã Tiền, có khi gã đi ở
thuyền trước. Mà chuyện này cũng
khó nói, Mã Tiền tên thật là
gì, người đời chẳng còn mấy
ai biết. Có đọc qua bài vị cũng
không đoán được. Chỉ có
điều, nếu họ Mã không đi
cùng thuyền, lỡ có chuyện gì
xảy ra thì chẳng ai che chở cho hai bà
cháu. Hơn nữa, bọn Âm Binh đã
tìm đường vô tới Địa
Phủ thì tụi nó cũng không cần
ngã và Nặc tử nữa. Ngã nghĩ
tới đó thì mới biết ra sai lầm
của mình, liền mắn tay Nặc tử
kéo ra cửa khoang, tránh xa mấy cái
quan tài.
Lúc
này, mắt ngã đã quen dần với
bóng tối, nhờ ánh đèn dầu
phọng leo lét đầu mũi thuyền mà
ngã nhìn ra, con thuyền đang trôi qua
một hang động. Hai bên là vách
đá đen đúa hắt màu xanh yêu
mị. Chừng được hơn mười
phút thì phía trước có ánh
sáng lấp loáng. Con thuyền trôi chậm
lại rồi dừng hẳn. Cái bóng
thuyền phía trước lờ mờ hiện
ra. Ngã bước ra mũi thuyền đảo
mắt nhìn quanh. Mấy con thuyền phía
sau cũng từ từ kéo tới. Hoá ra
cả đoàn thuyền tấp lại chờ
nhau ở đây. Có lẽ đây là
đoạn cửa hang, cả đoàn thuyền
tụ lại để cùng tiến vô chỗ
xung hiểm.
Sàn
thuyền tròng trành một chút rồi
con thuyền chuyển dịch về phía trước,
đi ra khỏi cửa hang. Bên ngoài màn
trời tối thăm thẳm lác đác
sao. Ánh sáng loang loáng phía trước
càng lúc càng hiện rõ. Ngã
vận nội công cố nhìn đi xa nhưng
cũng không thấy được gì. Ngã
liền vô cửa khoang lôi Nặc tử ra.
"Nặc
tử, ngươi có mắt tốt, ráng
nhìn về phía trước xem thử. Có
thấy ánh sáng gì không?"
Tiếng
Nặc tử run run trả lời:
"Tiểu
bối thấy ánh đuốc lấp loáng
trên sông. Hình như có cây cầu
đá bắt ngang."
Nó
chờ một chút cho thuyền tới gần
hơn rồi nói tiếp.
"Cây
cầu đá rất kiên cố, khoảng
năm nhịp, chạm trổ lồi lõm. Trên
cầu đá là những trạm canh đốt
đuốc. Bóng tụi Sùng binh thấp
thoáng. Hình như sương mù hay
khói trắng đang tràn về phía
đó."
Ngã
nghe Nặc tử nói vậy thì đoán,
bọn Âm Binh trên chiến thuyền phía
trước đã bắt đầu tấn
công lên trạm canh. Trong bóng đêm
bỗng vang lên mấy tiếng la rùng rợn
rồi đột ngột tắt lịm. Ánh
đuốc trên trạm canh vụt tắt, sau
đó chừng vài phút lại lác
đác cháy. Khi thuyền tới gần
hơn, ngã mới thấy rõ cây cầu
đá kiên cố bắt ngang qua sông.
Trên cầu tịnh không có bóng
dáng ai. Nặc tử chụp áo ngã,
chỉ tay xuống nước. Từ phía cầu
đá, xác Sùng binh vất vưởng
trôi ngược lại. Có khoảng hơn
mười cái xác trắng hếu.
Đoàn
thuyền Âm Binh Tả Sứ tiếp tục
trôi sâu vô lãnh địa Sùng
Chúa. Mấy cây cầu đá càng
lúc càng hoành tráng, kéo dài
xa thẳm về hai bên bờ như những
bức tường thành. Đuốc thắp
từng dãy, bốc lửa rừng rực. Xác
Sùng binh càng lúc càng nhiều, trôi
trắng cả khúc sông, lẫn trong đám
áo đen dập dềnh của bọn Hắc
Kỳ. Một cái xác Hắc Kỳ không
đeo khăn bịt mặt trôi chậm chậm
bên mạn thuyền. Hắn bị hút hết
sinh khí nên khuôn mặt trắng nhợt
quắt queo lại, hai con mặt lồi lên trên
lớp da khô đượm vẻ kinh hãi
không bút mực nào tả xiết.
Nặc
tử đứng trong sương mù chỉ
nhìn thấy được một nửa sự
việc nên càng thêm hoảng sợ.
Qua
tới trạm canh thứ tư, tiếng kẻng
báo động bỗng vang lên dồn dập.
Kéo theo sau là tiếng tù và rúc
lên từng hồi thảng thốt. Ngã
đoán là, lính Địa Phủ đã
phát hiện ra sự tấn công của
Trừng Giới Trại. Chiến thuyền phía
trước đột ngột dừng lại,
tiếng đàn bát nhị từ đó
vang lên sầu thảm chết chóc như
một mệnh lệnh.
Ngã
chưa kịp định thần đã nghe
trong khoang thuyền có tiếng động rọt
rẹt. Ngã vội vàng đẩy Nặc
tử qua bên, nghiêng người nhìn
qua cửa khoang. Mấy cái quan tài đang
lắc lư kỳ dị. Cái nắp bên
trên từ từ mở ra. Mùi tử khí
tràn tới nồng nặc làm ngã
choáng váng, chưa kịp nói với
Nặc tử lời nào, ngã đã té
xuống sàn ngất đi không còn biết
gì nữa.
*
Khi
ngã chập chờn tỉnh dậy, trăng
treo trên cao vàng vọt toả bóng. Ngã
thấy mình nằm ngay cửa khoang thuyền,
Nặc tử cũng nằc gần đó nhắm
mắt mê man. Biết có chuyện bất
thường, ngã vùng dậy chạy vô
khoang thuyền. Mấy cái quan tài đều
mở nắp, bên trong là vải lịm, áo
gối của người chết. Chẳng có
cái tử thi nào. Mùi hương mạn
đà la thoang thoảng trong không trung. Ngã
phóng ra cửa nắm tay Nặc tử bắt
mạch. May quá, thằng nhỏ còn sống.
Nó mở mắt ngơ ngác nhìn ngã,
lại hỏi.
– Có
chuyện gì?
Ngã
nghiến răng nói:
– Tụi
Âm Binh đã rời thuyền kéo lên
bờ. May nhờ có Mã Tiền, nếu
không thì bà cháu mình thành
xác khô.
Con
thuyền lúc này đang thả neo, chỉ
đong đưa theo sóng nước chứ
không trôi đi. Trên bờ lửa cháy
ngất trời, lẫn trong tiếng quạ trắng
kêu gào là tiếng la hét kinh hoàng,
tiếng vũ khí loảng xoảng vọng
tới. Ngã đoán, tụi Phạm Binh Hữu
Sứ cũng đã kéo tới hỗ trợ
cho quân Tả Sứ. Nặc tử cũng đã
tỉnh táo, nó mò mẫm đứng
lên nhìn quanh rồi chặc lưỡi:
– Không
ngờ Địa Phủ nguy nga tráng lệ tới
cỡ này.
Dưới
ánh trăng, đền đài cung điện
hiện ra chập chùng. Nhiều chỗ đang
bốc cháy dữ dội. Ngã quay sang Nặc
tử, nói:
– Họ
đã đi trước, đang phá nát
Địa Phủ để tầm thù. Bà
cháu mình đã lỡ mất dịp
tìm ra Anh Cả, bây giờ có ở đây
cũng chẳng ích gì. Nặc tử, ta ra
khỏi chỗ này thôi.
Nặc
tử không chờ ngã nói thêm, nó
lật đật theo ngã nhảy lên bờ.
Vừa lên tới mặt đất, nó
quay lại bờ sông, vừa kéo lưng
quần vừa hàm hồ chửi:
– Mấy
thằng chết toi chưa đầu thai. Thuyền
bè chẳng ra cái thể thống gì
mà cũng đòi rước quan lớn
đi.
Ngã
nhìn bộ tướng nó, bỗng nhiên
tức cười, liền doạ:
– Nhà
ngươi chửi cho lớn lên. Tụi Âm
Binh nghe được thì bắt ngươi
lại, nhốt luôn dưới thuyền. Mỗi
ngày xin tí dương khí.
Nặc
tử nín khe, hạ giọng nói:
– Bây
giờ biết đường nào mà ra.
Có khi đang ở trong chốn Âm Ty Địa
Ngục nào.
Ngã
ngước lên nhìn trời:
– Có
mặt trăng phía trên. Chỗ này
nhất quyết không phải là Âm Phủ.
Ta cứ nhắm hướng trăng tìm đường
ra thôi.
Hai
bà cháu theo hướng mặt trăng đi
tới. Lúc này, lòng ngã bồi
hồi như vừa mất mát một cái
gì đó. Con đường dài khó
nhọc tưởng là sẽ tới đích
bỗng nhiên rồi hoá công toi. Nặc
tử đi bên ngã cũng cúi đầu
không nói gì. Qua khỏi cổng thành
ngổn ngang xác chết và cung tên giáo
mác, cánh đồng hoang vắng hiện
ra. Tiếng la hét huyên náo lúc này
đã ở lại phía sau. Ngã với
Nặc tử không theo đường chính
mà băng qua đồng cỏ dại, được
chừng nửa giờ thì gặp con đường
mòn cắt ngang. Nặc tử cúi xuống
mặt đường xem xét rồi nói:
– Bà
Năm nhìn coi. Vết bánh xe còn rất
mới.
Lòng
ngã đang hụt hẫng chán nản lắm,
chẳng thiết tha gì, nhưng nghe Nặc tử
nói vậy thì cũng đứng lại
xem qua loa. Trên con đường đọng
bùn, vết bánh xe để lại xem ra
vẫn còn ướt tươi. Ngã thò
ơ hỏi:
– Ừ.
Vết xe còn mới. Thì có sao đâu?
Tụi trong thành bị đánh tả tơi,
bỏ chạy tán loạn là thường.
Nặc
tử lắc đầu:
– Âm
Binh Tả sứ tấn công bất ngờ lại
lặng lẽ chớp nhoáng. Không một
kẻ nào trong Địa Phủ có đủ
thời gian trốn thoát. Chỉ trừ khi, ai
đó luôn chuẩn bị cho mình một
con đường bí mật, xe cộ túc
trực sẵn sàng, vừa có biến là
lập tức trốn đi.
Ngã
giật mình, hỏi:
– Ngươi
nghĩ, đây là xe của Sùng Chúa?
Nặc
tử gật đầu:
– Chính
hắn.
– Mình
đuổi theo liền, may ra còn kịp.
Hai
bà cháu nói tới đó thì
thi triển khinh công cắm đầu chạy
theo hướng bánh xe. Khi con đường
dẫn tới ngang vùng sình lầy thì
dấu bánh xe đột ngột biến mất.
Chỗ này năng lác mọc cao mù
mịt, bên dưới là lớp bùn
nhão nên chẳng để lại dấu
vết gì. Nặc tử nói:
– Tụi
nó băng đồng lầy để xoá
dấu rồi. Chẳng biết đi về hướng
nào mà đuổi.
Vừa
lúc đó, ở phía tây có
tiếng chim heo kêu éc éc như heo bị
chọc tiết. Ngã la lên:
– Điềm
rất xấu. Sắp có kẻ tiêu mạng
ở đó.
Hai
bà cháu phóng chạy về phía
tây. Qua vùng đất thấp là cánh
đồng dưa. Vết xe càn qua đồng
kéo theo mấy dây dưa chằng chéo
bị xéo nát, hiện rõ mồn một
dưới ánh trăng. Cánh đồng
dưa đang mùa thu hoạch, trái to bằng
đầu người, tròn trịa đen
bóng. Nhiều trái dưa bị cán bể
nát tuôn ra màu đỏ ghê rợn.
Ngã nhìn máu dưa đỏ loè
loẹt trên đồng, bất giác nói.
– Đây
là điềm chết chóc.
Ngã
với Nặc tử vượt đồng dưa,
bám theo vết xe. Con chim heo đậu trên
cây chò chỉ bên đường vừa
giật mình bay lên, để lại tiếng
kêu éc éc chết chóc. Mấy con
chim heo khác đậu lù lù trên
cành cây khô tròn mắt nhìn
xuống. Không gian chìm trong bóng đêm
lạnh lẽo và yên ắng, nhưng thần
kinh ngã đang căng ra, cả cơ thể
nóng rực ngột ngạt. Hai bà cháu
lội qua con suối cạn cây cối um tùm,
phía trước mắt là chiếc xe ngựa
nằm chỏng trơ, không người không
ngựa. Xa xa, căn nhà lá nằm cô
quạnh giữa đồng, không ánh đèn.
Ngã với Nặc tử thận trọng tiến
lại gần chiếc xe ngựa. Đây là
loại xe tứ mã, nhưng bốn con ngựa
đều đã biến mất. Chắc bọn
này bỏ xe lại, cỡi ngựa đi cho
nhanh. Nặc tử bỗng khều ngã, chỉ
về phía căn nhà. Ngã không biết
nó phát hiện ra điều gì, cũng
không kịp hỏi, chỉ lật đật
bám theo.
Nặc
tử lăm lăm kiếm, băng qua ruộng dưa,
vòng ra phía sau nhà rồi tiến sát
dần vô đó. Có tiếng rên rỉ
kỳ dị trong gian nhà. Nặc tử nghe
ngóng một lúc rồi cất tiếng run
run hỏi:
– Có
ai trong đó không?
Không
ai trả lời, nhưng tiếng rên có vẻ
lớn hơn và dường như là đau
đớn khủng khiếp lắm. Nặc tử
đẩy cánh cửa tre, thận trọng bước
vô. Bên trong căn nhà nhỏ tối om.
Trăng soi qua cửa sổ, in bóng lên mấy
cái thúng và mớ bao tải cũ. Con
vật nằm giữa đống bao tải máu
me đầm đìa đang quằn quại rên
xiết. Tiếng rên của nó trong đêm
vắng nghe thật là ghê rợn, nửa
người nửa thú. Ngã đứng
chôn chân ở cửa. Nặc tử tới
gần bỗng la lên thất thanh:
– Trời
ơi. Kẻ nào hành xử tàn độc
như vầy?
Ngã
bước tới bên nó. Dưới ánh
trăng, kẻ nằm trong đống bao tải là
một người đàn ông bị cắt
hết tay chân. Máu me lênh láng, nhưng
hình như đã được rịt sơ
thuốc lên nên gã vẫn còn sống
ngoi ngóp. Ngã rùng mình kinh sợ
hỏi:
– Nhà
ngươi là ai?
Người
đàn ông há miệng định nói
điều gì, máu từ miệng bỗng
ộc ra xối xả. Ngã hét lên ghê
rợn:
– Trời
ơi. Kẻ nào hành xử tàn độc
như vầy?
Ngã
đoán là, người này đã
bị cắt tay chân và bị cắt luôn
lưỡi. Hai con mắt gã nhắm kín,
dù không chảy máu nhưng xem ra cũng
đã bị hạ thủ cho mù loà.
Đó là một người đàn
ông niên kỷ có lẽ quá thất
tuần. Tấm áo gấm vàng thêu rồng
phượng loè loẹt tấm đẫm máu.
Nặc tử cúi xuống hỏi nhỏ:
– Nhà
ngươi bị thủ hạ cướp xe rồi
bỏ lại đây, đúng không?
Người
đàn ông rên rỉ đau đớn,
cả thân hình co giật liên hồi,
bỗng nhiên rồi bất động. Dường
như là lão ta đã ngất đi.
Ngã rùng mình, nói:
– Nặc
tử. Ta nên cho hắn một nhát kiếm
nhân từ. Tình trạng này không
cứu chữa gì được nữa đâu.
Nặc
tử bỗng nhiên lùi lại, nó ghê
sợ nhìn ngã:
– Bà
Năm biết ông ta là ai rồi chứ gì?
Ngã
ngậm ngùi gật đầu:
– Đó
là kẻ mà ta bỏ bao công sức đi
tìm để đòi lại món nợ
cho ông Tám với thằng Sỏi.
– Vậy
bà Năm còn chần chờ gì nữa.
Cho lão ta một nhát cuốc là xong món
nợ.
Ngã
lắc đầu, bỗng dưng rồi cũng
lùi lại:
– Ta
không phải là kẻ giết người
để rửa hận. Chuyện giết người
tàn ác năm xưa, ta chỉ mong đưa
ra ánh sáng để oan hồn người
xấu số ngậm cười nơi chín
suối. Gặp oan gia trong tình trạng thảm
khốc này, có hỏi gì hắn cũng
không trả lời được thì làm
sao luận tội cho minh bạch. Dĩ trực báo
oán, quyết không dĩ oán báo
oán.
Thân
hình người đàn ông lại bắt
đầu nhúc nhích, tiếng rên rỉ
đứt quãng từng khúc nghe thảm
khốc dị thường. Nặc tử đảo
mắt nhìn, bỗng nhiên rồi la lên
hăm hở kỳ dị:
– Ta
cho ngươi một nhát kiếm kết liễu
mọi oán thù.
Bàn
tay nó vung kiếm lên, không chém
xuống liền mà hoa ngang một vòng như
múa đồng. Ngã đoán là nó
bị ma nhập, quyết giết người rửa
hận. Ngã hoảng hốt nhắm mắt, đọc
đại mấy câu kinh thoáng qua trong đầu,
cũng không rõ là kinh gì.
Bỗng
đâu có tiếng gió rít, tiếng
kim loại va chạm dữ dội. Ngã hết
hồn mở mắt ra. Một người đàn
bà mặc đồ trắng, che khăn mặt
trắng xuất hiện từ bao giờ trong gian
nhà. Cây kiếm của Nặc tử bị
đánh rơi xuống đất. Thằng nhỏ
không lượm kiếm lên mà nhìn
chăm chăm vô Bạch Y nữ nhân, rồi
nói chăm bẳm:
– Cuối
cùng rồi nhà ngươi cũng xuất
hiện. Ta mà không doạ lớn tiếng
thì không dụ được ngươi
vô đây.
Bạch
Y nữ nhân hừ một tiếng rồi liếc
ngang sang ngã, không thấy thưa gửi gì.
Ngã đang khó chịu thì nghe tiếng
Nặc tử truyền âm loang thoáng bên
tai. "Con mẹ áo trắng này bám
theo bà cháu mình từ Núi Răng
Sói." Ngã nghe vậy thì cười
nhạt:
– Nhà
ngươi bám theo bọn ta bao lâu nay, bây
giờ mới xuất đầu lộ diện.
Không biết ngươi với con người
nửa sống nửa chết kia có quan hệ
gì?
Nữ
lang lầm lì tiến gần tới bên cái
thây người đang thoi thóp, ngã
còn chưa kịp có phản ứng gì
thì ả đã xuất chiêu thần
tốc. Trong chớp mắt, mảnh áo trên
ngực phế nhân bị xé toạt. "Rẹt".
Trên khoảng ngực bê bết máu lộ
ra sợi dây chuyền không rõ bằng
vàng hay bạc. Mặt dây chuyền tuy vây
máu nhưng vẫn hiện rõ hình tròn
lưỡng nghi, nửa đen nửa đỏ. Nữ
lang áo trắng thò tay chụp tới, giật
đứt sợi dây chuyền. Ả đưa
mặt sau vòng lưỡng nghi ra dưới
ánh trăng xăm soi. Ngã định thần
tập trung công lực nghiêng đầu qua
nhìn lén, chỉ thấy trên đó
có hàng chữ nhỏ li ti, nhưng không
rõ là chữ gì.
"Soạt."
Bàn
tay lại chụp lên vai phế nhân, thủ
pháp nhanh nhẹn dị thường. Khoảng
vai trái vai lộ ra giữa đường vải
rách. Nữ lang cúi đầu nhìn chăm
chăm khoảng vai và khuôn mặt phế
nhân. Bất ngờ thị bật cười
thê thảm. Vừa quay sang ngã, nữ lang
đã đổi giọng lạnh lùng nói:
– Tại
hạ xin mạn phép, đưa gia gia ra khỏi
chỗ này.
Ngã
giật mình, hoá ra người này là
con gái của Anh Cả. Khuôn mặt nữ
lang che kín khăn trắng, bóng tối lại
đọng trên quầng mắt, nên ngã
không sao đoán được sắc diện.
Nhưng theo kiểu nói của thị, dù
ngã có bằng lòng hay không, thị
cũng quyết mang tên phế nhân kia đi.
Ngã nén giận quay qua Nặc tử:
– Nhà
ngươi có còn oán cừu gì
với kẻ kia không?
Nặc
tử lúng túng nói:
– Tiểu
bối với lão ta chẳng có oán
cừu gì riêng tư. Lão gây nên
nghiệp nhân mà lãnh nghiệp quả
như vậy kể như là gặp đủ
báo ứng, bây giờ sống cũng như
chết chẳng còn đủ sức hại
ai. Mình cứ để cô Hoài Bắc
mang lão ta đi thôi.
Nghe
Nặc tử nói vậy, ngã mới biết,
đó là con nhỏ Hoài Bắc, đứa
con gái năm xưa đi với thằng Giang
vô nghĩa địa tìm mộ Bảy Tốt.
Ngã nhớ chuyện xưa thì động
lòng nên hạ giọng nói nhã nhặn
với nó:
– Từ
lần gặp đó tới nay, thấm thoát
đã hơn hai mươi lăm năm. Bao
nhiêu chuyện bi thương xảy ra. Thôi,
nhà ngươi cứ mang kẻ oan nghiệp
kia đi khỏi chỗ này cho trọn nghĩa
với kẻ có công sinh thành.
Con
nhỏ Hoài Bắc không thèm trả
lời, nó nhìn ra cửa sổ, cất
tiếng khàn khàn gọi:
– Tiểu
Cáp Mô, ngươi vô đây giúp
ta một tay.
Ngã
giật mình nghĩ thầm, hoá ra con nhỏ
này là chủ nhân của Tiểu Cáp
Mô. Nó cho thằng người cóc theo
hầu hạ ngã bao lâu nay kể ra cũng
là đứa có tình, chỉ vì
gặp chuyện đau thương mà hành
xử hơi kỳ quặc. Thôi thì bỏ
qua cho nó. Không ngờ, Nặc tử lại
hắng giọng:
– Thằng
cóc khô đó bám theo bà Năm
lâu nay là để dọ thám tin tức.
Đợi nó vô đây, tiểu bối
đá đít nó một cái cho bõ
ghét.
Con
nhỏ Hoài Bắc gọi tới lần thứ
hai không thấy Tiểu Cáp Mô xuất
hiện thì tỏ vẻ bồn chồn lo lắng
lắm. Nặc tử bỗng lùi về phía
cửa sau, kêu lên:
– Nguy
rồi. Có chuyện…
Nó
vừa nói tới ngang đó thì ngã
nghe ngoài ruộng có tiếng quạ kêu.
Con Hoài Bắc nhảy dựng lên, trong chớp
nhoáng là rút kiếm ra khỏi vỏ.
Ngã nhìn ra cửa sổ, bầu trời
tối đen bên ngoài đang hoá ra
vàng nghệ. Ngã xông tới nắm tay
con Bắc, nói:
– Họ
tới rồi. Ngươi không chống cự
nổi đâu.
Bàn
tay con Bắc gồng cứng lên trong tay ngã,
hai cặp mắt nó nhìn ra cửa sổ
đầy vẻ phẫn nộ. Ngã không
biết con nhỏ này đã chạm trán
Âm Binh Tả Sứ bao giờ chưa, nhưng
thằng đồ đệ Cáp Mô của
nó sợ tụi Âm Binh này hơn ai
hết. Màu vàng ghê rợn bắt đầu
tràn tới bên cửa sổ, tiếng quạ
kêu như xé màng nhĩ. Ngã vội
vàng nắm tay con Bắc kéo vô góc
nhà bếp phía sau. Nó không chống
cự mà loáng cái lạng tuốt ra
phía sau lưng Nặc tử. Ba người
ngồi lùi sát vô trong góc bịt
tai bịt mắt lại.
Tiếng
kêu khát máu rùng rợn vang lên
khắp cánh đồng. Chừng khi sương
tan, trăng hiện ra mỏng manh trên bầu
trời, cánh đồng chìm trong hoang vu
thinh lặng, ngã với Nặc tử mới
mò vô lại trong nhà. Cái thây
người nằm trên đống vải bố
chỉ còn là cái xác khô quắp,
teo tóp không còn chút máu. Con Bắc
nhìn sững cái xác rồi kêu lên
một tiếng không rõ nghĩa. Ngã
còn chưa kịp an ủi tiếng nào, đã
thấy nó phóng rẹt ra cửa sổ
biến mất.
Ngã
với Nặc tử cũng lật đật rời
khỏi căn nhà u ám đó, kéo
nhau đi như chạy khỏi ruộng dưa.
Sáng
hôm sau, leo được qua vách núi
phía tây thì đoạn Chân Phễu
đã hiện ra trước mắt. Ngã
nhìn lại khung cảnh hoang sơ bí ẩn
của Long Hồ, lòng sao cứ thấy nặng
nề không chịu nổi. Ngã thở dài
quay qua nói với Nặc tử:
– Cái
đoạn kết cục man rợ bi thảm này
nằm ngoài ý muốn và sự tưởng
tượng của ta, nó không hề làm
sáng tỏ những điều oan khuất tức
tưởi trong quá khứ, nó chỉ đẩy
ân oán hận thù vô chỗ câm
lặng ghê tởm.
Nặc
tử cũng buồn bã trả lời:
– Tiểu
bối cũng thấy cái đoạn kết
này ghê tởm. Nhưng kết cục ra sao
thì tốt đẹp? Chẳng lẽ đánh
nhau tưng bừng một phen, vừa đánh
vừa kể tội nhau ra, cuối cùng nhân
danh công lý đâm cho kẻ ác nhân
một mũi kiếm? Hay là cái kết cục
bi hùng thống thiết như trong Lục Mạch
Thần Kiếm? Tư cách của Anh Cả
trong Miền Hư Ảo làm sao sánh được
với Huyền Từ phương trượng, kẻ
điềm nhiên thụ hình trước
công chúng để giải quyết tội
nghiệp.
Ngã
nhớ tới tình cảnh thương tâm
của con Hoài Bắc, động lòng nói:
– Oán
thù đã chẳng giải quyết được
gì, chỉ dám hy vọng ngày mai sẽ
tốt đẹp hơn. Mình qua bên kia đón
Ngộ Năng rồi tìm đường về
lại Thổ Ty.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét