*** |
- Thriller -
Cơn ác mộng bắt đầu khi Lân quyết định giấu xác thằng nhỏ đánh giày vô tủ áo quần.
Cơn ác mộng bắt đầu khi Lân quyết định giấu xác thằng nhỏ đánh giày vô tủ áo quần.
Thật ra, tôi chẳng lạ lùng gì chuyện giết người và phi
tang xác chết. Báo chí đăng đầy, như cơm bữa. Ở nơi nào có hoa hậu thì ở
nơi đó có án mạng. Đọc riết rồi quen. Đọc quen rồi ghiền. Càng giết dã
man càng gây cảm xúc mạnh. Khoái nhất là những bài báo có kèm theo hình
ảnh minh hoạ. Một vài vũng máu đen. Một cái chân người chết tái ngắt ló
ra sau tấm chiếu. Tờ báo tôi vừa đọc sáng nay trên máy bay đưa tin cô nữ
sinh hoa hậu bị người yêu hãm hiếp rồi chặt ra từng khúc. Báo đăng chi
tiết tới độ tôi bỗng cảm thấy nghẹt thở vì bị thằng cuồng dâm bóp cổ.
Mấy ngón tay tôi đau rêm như đang bị nó cắt ra từng đốt. Tôi nhìn qua
người khách kế bên, ông ta cũng đang đọc bài báo đó. Khuôn mặt người đàn
ông đờ đẫn trong nỗi sợ hãi khoái trá. Cặp mắt có hai cái mí sưng bụp
và mọng đỏ ngước lên nhìn tôi. “Tất cả chúng ta đều có thể trở thành kẻ
giết người.” Tôi rùng mình như bị bắt quả tang. “Hay trở thành kẻ bị
giết.”
Ở nơi nào có hoa hậu thì ở nơi đó có án mạng. Căn phòng
này cũng không ngoại lệ, một hoa hậu và một xác chết. Nếu kể thêm cho
đúng giọng điệu câu khách của báo Công An, thì sẽ có thêm một đại gia và một chiến sĩ cách mạng lão thành.
Thằng nhỏ nằm đó, cạnh chân bàn, quấn kín trong tấm mền
nỉ trắng. Loại mền khách sạn dành cho những phòng có máy lạnh. Máu đỏ
trên đầu nó đang thấm ra một vùng bằng trái táo. Tôi nói tới trái táo
tây của nàng Bạch Tuyết, chứ không phải trái táo ta nhỏ bằng trái chanh,
hay trái táo tàu nhỏ bằng đốt ngón tay.
Chị cả của Lân ngồi co rút nơi góc salon, cặp mắt trong
veo như búp-bê ngước lên lỗ thông hơi trên trần nhà. Từ đó, tiếng máy
lạnh rì rì vọng ra, xăng xái chạy trước kịch bản, thổi vô phòng mùi xác
chết hăng hăng. Khi mà cái xác mới tinh còn chưa kịp bốc mùi tử khí.
Thằng nhỏ vừa bị chị Trung lỡ tay xô ngã, đầu đập vô cạnh bàn. Người nó
còn mềm oặt khi Lân xốc lên. Lân nhăn mặt nói:
“Em phụ anh đưa nó về phòng mình.”
Trời, làm gì có phương hướng giải quyết tiêu cực kiểu này. Tôi khoái đọc báo Công An,
khoái theo dõi những vụ án mạng. Nhưng điều đó không có nghĩa là tôi
khoái nhúng tay vô những vụ giết người. Những người làm báo chuyên
nghiệp cũng nắm chắc điều đó. Độc giả chỉ đọc báo tìm cảm giác mạnh chứ
không giết người. Lời nói của người đàn ông trên máy bay thoảng qua tai
tôi, bây giờ, nó lại giống như giọng đe doạ của Lân. “Hay trở thành kẻ
bị giết.” Bất giác tôi lùi lại nửa bước.
“Anh không thể đưa nó về phòng mình. Đây là án mạng, anh phải báo công an.”
Lân kê đầu gối đỡ ngang vai thằng nhỏ. Bộ mặt gã co rút, tím ngắt lại như trái cà dái dê héo.
“Ngu vừa thôi chứ. Chuyện này đổ bể ra, gia đình mình sẽ
gặp trăm ngàn thứ phiền phức. Báo chí. Công an. Bác sĩ. Dư luận... Dù gì
nó cũng chết rồi, chẳng ai cứu sống được. Chị Trung chỉ lỡ tay xô ngã.”
Đừng quên cái chữ “ngu” này, nghen. Những vụ hạ nhục nhân
phẩm như vầy đều phải ghi sổ đen để khi nào có dịp là thanh toán sòng
phẳng. Tạm thời đành phải chịu lép đã. Tôi đổi giọng líu ríu, yếu như
con cuốn chiếu:
“Thì... híc... mình báo với công an là... híc... lỡ tay.”
“Ngu vừa thôi chứ. Ai mà tin. Một thằng nhỏ đánh giày nửa
đêm vô phòng bà già đi dép nhựa, rồi bị xô té bể đầu. Họ sẽ làm lớn
chuyện để gia đình mình khánh tận, chứ loại gian manh cùng đinh này đầy
đường, có mất đi một đứa cũng chẳng việc gì.”
Khuôn mặt Lân bây giờ trắng bệch ra vì căng thẳng, vì cố
gắng quá sức, vì nói quá nhiều. Da mặt Lân giãn ra tới độ chỉ cần dí cái
móng tay lên là nổ banh một phát. Tôi nắm chặt hai bàn tay của mình
trong túi áo ngủ, chặt tới độ những cái móng đâm sâu vô lớp da và những
khớp xương lồi hết lên. Tôi lại càng tin chắc là nếu tôi xỉa tay mình vô
mặt Lân lúc này, mặt gã sẽ nổ banh. Mười một giờ đêm. Đốm máu trên đầu
thằng nhỏ đã loang lớn bằng bàn tay, chỗ đó ướt đẫm. Máu như sắp trào
ra, thấm sang ống tay áo pyjama trắng của Lân. Suy nghĩ loé sáng trong
cái đầu mà Lân luôn nguyền rủa là ngu ngốc.
“Nó còn sống. Chắc là nó vẫn còn sống. Anh coi kìa, máu đang chảy ra.”
Chị Trung ngồi đờ đẫn ở ghế salon bỗng đứng bật dậy, lanh
lợi tỉnh táo như chưa từng điên. Chị rờ tay vô cạnh bàn rồi cúi xuống
bên cái xác thằng nhỏ. Bàn tay khô cứng thọc nhanh vô lớp mền trắng
giống như xẻng xúc đất. Khuôn mặt lạnh lẽo bỗng nở nụ cười kỳ quái.
Người chưa quen nhìn thấy nụ cười này là dựng đứng tóc gáy. Đôi môi chị
mỏng lét vàng khè mở ra, mấp máy:
“Nó chết rồi. Lúc ngã xuống, nó giật nảy người hai bận
rồi chết.” Chị Trung nói tới đó thì thưỡn ngực lên, nảy hai cái thiệt là
dung tục. “Để chị giúp em khiêng xác nó đi.”
Những chuyện như vầy báo chí chẳng bao giờ tưởng tượng ra
nổi để mà đăng. Chỉ có người trong cuộc mới biết phải đối phó ra sao.
Tôi im lặng. Chị Trung nhấc phần chân thằng nhỏ lên, thô bạo tới độ cái
mền tuột ra để lộ hai bàn chân trần gầy đét. Tôi nhìn sững bàn chân có
mấy cái ngón trắng bệch bám đầy bùn đất bỗng nghẹn thở, buồn nôn. Không
phải tôi sợ thấy xác chết, mà bàn chân thằng nhỏ làm tôi nhớ tới thằng
Út. Mỗi buổi tối, nó leo lên giường ngủ cũng với hai bàn chân nhỏ xíu
lem luốc như vầy. Tôi phải bám vô tường mới đứng vững được.
“Nè... anh không thể mang nó về phòng mình. Bên đó làm gì có chỗ.”
Lân lôi xềnh xệch thằng nhỏ ra cửa, hai gót chân trần của nó kéo lê trên mặt thảm. Gã nói qua hơi thở giận dữ:
“Nhét nó vô tủ áo quần. Được chưa? Nó chỉ nằm đêm nay, ngày mai sẽ có người đưa đi.”
Tôi thèm đấm một cái hết ga vô bộ mặt căng bóng của Lân.
Nếu ai bảo vợ đánh chồng là hỗn láo, là vô đạo đức, thì tôi sẽ cười ré
lên. Hôn nhân giữa đại gia và hoa hậu, làm gì có theo một công thức đạo
đức nào. Loại hôn nhân như mì ăn liền, ăn sống cũng được mà trụng nước
sôi cũng được.
Thằng nhỏ bị chị em Lân bẻ gập lại, nhét vô tủ áo quần.
Bàn chân nó thò ra khỏi mép cửa, cứ như đang cố sức bước ra ngoài. Lân
đưa mũi giày lên, hất luôn cái chân vô tủ. Tôi ghê tởm nhìn đôi giày nâu
vàng bóng loáng của Lân. Đôi giày da kiểu Anh, Charles Tyrwhitt, Lân
đặt mua trên đường Đồng Khởi với giá hai mươi triệu. Lân cẩn thận chùi
đầu mũi giày lên mép mền nỉ rồi kéo tà áo dài màu cẩm thạch của tôi
choàng qua nửa cái xác. Trời Đất, cái áo dài tôi mặc trong show diễn
“Tấm lòng vàng cho trẻ em đường phố” vào ngày quốc tế thiếu nhi. Cánh
cửa kêu kèn kẹt khi nghiến qua góc mền, từ từ khép lại giam kín thằng
nhỏ trong góc tối.
Lân tìm được ở đâu cuộn băng keo lớn. Hai chị em hì hụi
dán chặt cánh cửa kéo, cứ như họ sợ thằng nhỏ tìm cách đẩy cửa chui ra.
Sống lưng tôi ớn lạnh như có ai xát nước đá lên. Hay là thằng nhỏ chưa
chết.
Đêm trôi đi chậm chạp trong niềm ám ảnh day dứt. Cái tủ
áo quần chỉ nằm cách giường tôi có hai bước chân. Thằng nhỏ nằm trong
đó, hy vọng là đã chết. Tôi hoang mang uống gần hết chai rượu đỏ, rồi
thiếp đi trong cơn mê. Đâu đó, giữa bốn bức tường đen mịt, tiếng hét hãi
hùng điên loạn của chị Trung chạy quanh quẩn mà không sao thoát ra được
thế giới bên ngoài. “Truy lùng... gom hết vô một chỗ... xử lý.”
Tiếng động kỳ dị từ tủ áo quần vọng ra làm tôi choàng tỉnh.
“Nè. Anh có nghe thấy gì không? Thằng nhỏ còn sống.”
Ánh trăng chuồi qua mép màn cửa, rọi lên khuôn mặt Lân
một khoảng trắng nhợt nhạt. Gã nhăn nhó như kẻ đột tử trong cơn đau đớn
cùng cực. Lớp da mặt ban ngày luôn căng bóng của Lân bây giờ bèo nhèo, u
sần như tấm giẻ lau nhà mục nát, vón cục. Tôi quan sát khuôn mặt luôn
xa lạ đó, lại nhớ tới bộ phim mà tôi bị ám ảnh, The Lord of the Rings.
Không ai biết được tuổi thật của Lân, kể cả bầu Huấn, người hoan hỉ
giới thiệu tôi cho đại gia Đoàn Vĩnh Lân. Tôi cũng không hề có ý định
tìm hiểu tuổi tác của Lân trên giấy tờ. Ai đã từng lăn lộn bò lết trong
giới showbiz cũng biết, giấy tờ chẳng là cái cùi loi gì. Vài trăm đô,
hay một bữa nhậu giá bèo, là có tên mới, ngày tháng năm sanh mới. Chỉ có
một sự thật không sao mua được bằng tiền. Bộ mặt căng bóng trơ lì như
xác chết của Lân mỗi khi cúi xuống hôn tôi, luôn làm cho tôi khiếp sợ và
ghê tởm.
Bàn tay tôi vừa định đặt lên vai Lân bỗng ghê tởm rụt
lại. Tôi nói như báo tin dù biết, gã chẳng hề nghe được gì trong giấc
ngủ mê muội:
“Lân, em phải gọi bác sĩ.”
Thoáng tiếng thằng nhỏ thở khò khè sau cánh cửa tủ. Hình
như nó thiếu không khí. Hình như nó đang bị chôn sống giữa bốn lớp gỗ
dán kín băng keo. Tôi nhớ tới lúc đầu hôm gặp nó trước cửa khách sạn,
khi lẻn ra bên ngoài vài phút hóng gió. Buổi ăn tối với chị em Lân trong
nhà hàng làm tôi ngộp thở. Những người khách già nua tàn tật, nửa điên
nửa tỉnh, nói nói cười cười. Tôi thấy họ giống như đám ma đói bên những
mâm thức ăn ngồn ngộn. Đôi môi vàng khè của chị Trung ngấu nghiến những
khoanh thịt bò chưa chín tới còn tươm máu đỏ. Bộ móng tay đen đủi cào
bới lên dĩa cơm trắng. Tôi nhắm mắt lại, quay mặt nhìn ra cửa sổ, nơi có
chùm hoa sứ trắng đong đưa. Lẽ ra tôi vẫn có thể ở lại thêm vài phút,
nhìn hoa sứ trắng để uống hết chai rượu Long Wood California. Nhưng lão
già ngồi bên chị Trung đổ rượu tràn lan qua cửa miệng làm tôi thấy màu
đỏ của wine trở nên nhớp nhúa. Năm nào chị em Lân cũng về lại đây dự đại
lễ. Giới showbiz rỉ tai nhau tin đồn: ba người vợ trước của Lân theo
hầu hạ chị chồng dịp này đều gặp tai nạn mà chết bất đắc kỳ tử. Một cô
bị xe lửa cán ngang cổ. Một cô té từ lầu cao xuống, cọc sắt xuyên qua
lưng. Một cô bị bọn trấn lột bổ cuốc vô sau đầu. Tôi mỉm cười tự tin
chấp nhận lời cầu hôn của Lân.
Thằng nhỏ đánh giày đột ngột bước ra khỏi gốc cây sứ bên
cửa khách sạn. Nó tới cạnh tôi, nói bằng một giọng rỉ rả, ẩm ướt mưa
phùn:
“Chị ơi, chị đánh giày không?”
Tôi không thích cái giọng mềm nhão như người sắp chết của
nó, nhưng cái bóng gầy gò nách theo thùng đạn tróc lở móp méo mang vẻ
nhẫn nhục quen thuộc làm tôi nhớ tới má, cứ vẹo lưng như vậy, tha thúng
bánh tét đi khắp hang cùng ngõ hẻm. Cả buổi chiều nay, nó bám theo tôi
và chị em Lân cũng chỉ để hỏi câu này. Hình nó không tìm được khách.
Hình như nó đói và lạnh. Hai bả vai nhô lên như báng xương rồng khô dưới
lớp áo xỉn màu đất. Không biết trời xui đất khiến kiểu gì mà tôi lại
đưa tay vuốt mái tóc bù xù của nó:
“Chị không đánh giày. Nhỏ cầm ít tiền đi ăn tối nghen.”
Nó rùng mình khi bàn tay tôi chạm lên tóc. Cả thân hình nó chao đảo cứ như là sắp té, miệng lại lảm nhảm:
“Chị đẹp như hoa hậu.”
Tôi tức cười nói:
“Thưởng thêm cho lời khen của nhỏ một tô bún bò.”
Nó phân vân vuốt tờ giấy hai trăm ngàn đồng giữa mấy cái ngón đóng đầy đất đen. Giọng nó run run:
“Mới nhìn qua, biết chị là người tốt. Nhưng sao chị đi chung với họ, lại ở trong khách sạn này?”
Hoá ra thằng nhỏ biết nhiều chuyện hơn tôi tưởng.
“Khách sạn này có gì không hay?”
Ánh mắt nó tối sầm lại:
“Khách sạn này có thắp đèn. Ban đêm chị đừng bước ra khỏi
phòng. Cũng đừng cho ai vô phòng. Ở trong đó, khoá chặt cửa lại, chờ
trời sáng.”
Không chờ tôi kịp tiêu thụ hết những lời cảnh cáo khủng khiếp, nó nhét tờ tiền giấy vô túi áo, nói luôn:
“Cái này em giữ làm kỷ niệm. Có ăn uống gì đâu mà chị cho tiền.”
“Mà, nè em. Cái khách sạn này có gì...”
Nó nhảy lùi lại một bước, biến mất sau gốc cây.
Cho tới khi nó chết, tôi vẫn không hiểu được, câu chuyện
bên cây sứ nằm ở mức độ nào của sự tỉnh táo, sau khi uống hết ba ly rượu
đỏ. Tờ tiền giấy hai trăm ngàn vẫn còn nằm ngay ngắn trong bóp của tôi.
*
Tôi bò dậy, cố giữ mình tránh xa cái tủ, tránh xa thân
thể bất động của Lân, lần mò ra phòng khách tìm máy điện thoại. Đường
dây nối xuống quầy tiếp tân chỉ có những tiếng rét rét như dế kêu. Tôi
quay máy nhiều lần, bỗng rồi ngớ ngẩn nhận ra, căn phòng này mất điện từ
khi nào. Đốm đèn đỏ góc tivi không cháy. Đồng hồ điện tử của tôi đặt
trên bàn nước cũng tắt ngấm. Chỉ có ánh sáng trăng lạnh lẽo soi qua
khung cửa. Mà mùa cuối tháng âm lịch thì không thể có trăng. Tiếng rên
rỉ, cọt kẹt vọng ra từ phòng ngủ, như là đau đớn, như là hăm doạ, không
rõ của Lân hay của thằng nhỏ kia.
Tôi mang giày, khoác áo lạnh lần ra hành lang. Bên ngoài
cũng tối thui như trong rạp chiếu phim. Phía xa, cuối hành lang thoáng
chút ánh sáng leo lét. Tôi phân vân không biết có nên rút chìa khoá cửa
mang theo, vì tôi sợ khi trở về sẽ không vô được phòng. Lân ngủ rất say.
Gã sẽ hoá hung tợn nếu bị đánh thức trước khi trời sáng. Nhưng nếu rút
chìa khoá ra khỏi ổ công tắc điện thì phòng sẽ bị ngắt điện luôn. Như
vậy cũng làm Lân nổi cơn thịnh nộ nếu bất chợt thức dậy trong bóng tối.
Cánh cửa phòng bên cạnh bỗng bật mở. Bóng đen thình lình
hiện ra trước mặt tôi, nụ cười ngây độn tối tăm. Dẫu nhận ra bà chị
chồng điên điên tỉnh tỉnh, tôi vẫn hốt hoảng sảy tay. Cánh cửa phòng
đóng sập lại sau lưng. Chị Trung khoác tấm áo mưa dài ướt đẫm như vừa từ
bên ngoài trở về. Tôi ái ngại hỏi:
“Ủa, chị đi đâu giờ này?...”
Chị chồng tôi đứng bên ngạch cửa nhìn sững vào bóng đêm,
lắng nghe động tĩnh. Nhưng chị không thấy tôi, không nghe tôi nói. Xa xa
có tiếng pháo nổ đì đùng, lác đác vọng về. Chị vuốt mái tóc đẫm nước,
nở nụ cười ghê rợn rồi bước thụt lùi vô phòng. Cánh cửa phòng 214 đóng
sập lại. Một tiếng “cốp” cộc cằn vang lên, không rõ là tiếng kéo ổ khoá
hay tiếng va chạm kim loại gì đó.
Tôi đứng ngẩn ngơ trước cửa phòng, nhớ tới lời thằng nhỏ
đánh giày. “Ban đêm chị đừng bước chân ra ngoài”. Bây giờ mới nhớ tới nó
thì đã quá muộn. Cánh cửa phòng tôi đã khoá kín. Chìa khoá còn gắn
trong ổ công tắc điện. Thằng nhỏ đánh giày bị thương nằm trong tủ chờ
chết.
Tôi lần theo vách tường xuống đại sảnh. Cô gái cỡ tuổi
tôi, ngồi bên quầy tiếp tân. Cô mặc áo dài trắng, cắm cúi đan len bên
ngọn đèn dầu leo lét. Cuộn len màu tím rất to nằm trên bàn giấy. Cái áo,
hay cái khăn gì đó chỉ mới đan được khoảng một gang tay. Hai que kim
loại nhọn hoắc đâm xiên xẹo liên tục vô nhau rất khít khao. Tôi chưa
thấy ai đan len bao giờ. Ở quê tôi, không ai cần áo len. Mà tôi cũng
tưởng thời buổi này ngoài siêu thị cái gì cũng có, không còn ai phải tự
đan áo. Thành ra hình ảnh người thiếu nữ ngồi đan len dưới ánh đèn dầu
trông rất cũ kỹ và xa lạ. Nó lạc điệu như tấm hình Marilyn Monroe với
cái xu-chiêng thô cứng bự chảng mà bầu Huấn treo trong phòng tập nhảy.
Không biết bầu Huấn thấy đẹp chỗ nào, chứ tôi thấy bà hột mít đó quê mùa
và thô kệch kinh khủng. Cô gái ngước mắt lên nhìn tôi. Cặp mắt không có
tròng đen, trắng dã ghê rợn. Tôi đang nghĩ tới cái xu-chiêng của
Marilyn bỗng giật mình, la lên thất thanh. Nhưng rồi cô ta chớp chớp cặp
mắt đen tuyền:
“Chị cần gì?”
Suýt nữa tôi tát vô mặt mình một cái, cho tỉnh ngủ. Rõ ràng cô này có hai tròng mắt đen rất to. Tôi nói như trách móc:
“Chị ngồi đan ở đây cả đêm à? Tôi gọi điện thoại xuống mấy lần mà không được.”
Khuôn mặt xanh xao nở nụ cười tối đen. Tôi lại trợn mắt
nhìn. Hình như cái miệng tối tăm đó không có răng. Nhưng bây giờ cô ta
đã có răng. Ánh đèn dầu soi lên hàm răng đều tăm tắp:
“Cúp điện từ hai ngày nay, mất hết liên lạc với Sài Gòn.”
Tôi tưởng mình nghe lầm, lại định vỗ hai cái lên lỗ tai.
Buổi chiều, khi tôi tới đây, khách sạn vẫn có điện bình thường. Tôi còn
nhớ rõ, hành lý của tôi được chuyển lên tầng trên bằng thang máy. Trước
lúc đi ngủ tôi còn coi tivi show diễn thời trang nhàm chán của bầu Huấn.
Anh ta đang cố tìm cách đưa Mai Lý vô thay thế vị trí số một của tôi.
Chuyện mất liên lạc với Sài Gòn cũng là bịa đặt. Chuyến bay từ Sài Gòn
ra đây chưa tới một giờ và chỉ gặp trở ngại nhỏ khi lạc vô vùng bão
xoáy. Lúc đó Lân đã cười đểu cáng và lên giọng doạ dẫm. “Tụi mình sẽ lạc
vô vùng địa ngục và chỉ có một đứa quay trở lại.” Tôi khó chịu ngắt lời
gã. “Mình ra đó để ăn tết, anh đừng nói những lời xui xẻo khó nghe như
vậy.” Nhưng Lân vẫn tiếp tục cười đe doạ, gã không bao giờ quên được ý
nghĩ phải hành hạ tôi, phải làm cho tôi sợ hãi. “Ừ, ăn tết. Một cái tết
chết chóc.”
Tôi phân vân nói với cô tiếp tân. Một cô tiếp tân có đủ răng và mắt.
“Tôi cần một bác sĩ.”
Cô tiếp tân lại tiếp tục bằng một giọng lạc lõng:
“Họ ở bên bệnh viện tiểu khu. Nhiều người chết và bị
thương quá. Một số phòng của khách sạn này cũng được trưng dụng để chứa
xác vô thừa nhận.”
Tôi bắt đầu mất bình tĩnh, có cái gì không bình thường ở
đây. Hoặc là tôi mơ ngủ. Hoặc cô gái này điên. Tôi tì tay lên cạnh gỗ xơ
xước. Dĩa mứt tết trước mặt tôi mốc đen gớm ghiếc đến độ tôi thấy nó
giống như dĩa thèo lèo cứt chuột. Chẳng hiểu khách sạn năm sao này đón
khách kiểu gì mà chưa tới tết mứt đã mốc meo. Tôi lên giọng bực tức:
“Tôi cần một bác sĩ, có người bị thương nặng trên phòng, máu ra nhiều lắm.”
Cô tiếp tân che tấm len màu tím lên mặt, nói như đóng kịch:
“Sao mà bị thương? Trúng đạn hay pháo? Sao mà nhiều người
chết như vậy? Bác sĩ Alois vừa đi ra bên ngoài, chị có thể đuổi theo
anh ấy. Trước khi trời sáng.”
Tại sao lại trước khi trời sáng? Chẳng lẽ ông bác sĩ này
chỉ làm việc ca đêm? Tôi hít một hơi, đi về cửa chính. Bên ngoài tối
đen, trời đã ngưng mưa nhưng không khí vẫn còn ẩm ướt và dày đặc sương.
Cây sứ trắng đậm ngát hương đêm. Tôi bước ngang qua chỗ đầu hôm gặp
thằng nhỏ đánh giày. Cảm giác có ai quan sát làm tôi giật mình quay lại.
Gốc cây trắng sần sùi hiện ra mờ ảo trong màn sương. Chiếc bóng cô gái
tiếp tân cũng khuất lấp dưới ánh đèn dầu tù mù. Gió đưa mùi nhang trầm
kỳ bí đêm cuối năm, đưa mùi thuốc pháo khô khốc. Một tiếng nổ bất chợt
xé toạc màn đêm. Ánh sáng vụt cháy đỏ ở góc trời. Tôi sững lại một giây
rồi quyết định chạy về hướng đó.
*
Thành phố ban đêm bị thu hẹp lại. Những mái nhà cổ kính
té sấp vô nhau. Những con đường bị vọp bẻ co rút cong quẹo. Không một
bóng người, vắng lặng ghê hồn. Mấy hương án đặt trước bình phong âm ỉ
cháy, toả những đốm sáng lập loè. Tôi chạy loanh quanh hơn một giờ đồng
hồ mà không biết con đường nào dẫn về cái chỗ mang tên kỳ cục “bệnh viện
tiểu khu”. Cả con đường quay về khách sạn tôi cũng không tìm lại được.
Những tấm bảng tên đường cũ kỹ, gần như mục nát, nằm vắt ngang trên cột
gỗ khẳng khiu. Tôi bỗng có liên tưởng khó chịu, mấy tấm bảng tên đường
này như những cây thánh giá trên nấm mộ xưa cũ bỏ hoang.
Tôi tạt vô dãy hàng quán còn mở cửa bên đường. Ánh đèn
dầu leo lét soi lên những bộ bàn ghế xếp ngay ngắn. Nhiều bàn còn nguyên
chén đũa và thức ăn thừa đã mốc meo. Tôi hắng giọng để đừng run, rụt rè
cất tiếng gọi:
“Có ai ở đây không? Xin lỗi! Có ai ở đây không?”
Từ trong những bức tường gỗ cũ kỹ vọng lại tiếng kêu lạc
lõng của tôi, “... ai ở đây không...” Mấy câu đối đỏ treo trên tường
phất phơ chuyển động, cũng phát ra tiếng nói u uẩn, “...ai ở đây...” Tôi
bước qua cửa, lúng túng phân trần:
“Tôi chỉ hỏi đường. Tôi chỉ đi tìm bác sĩ. Bác sĩ tên... Alois gì đó.”
Tiếng cười nhỏ phía sau lưng làm tôi dựng tóc gáy.
“Cô nên trở về phòng và khoá cửa lại.”
Gã đàn ông đứng bên quầy rượu từ bao giờ, nhìn tôi cười
chế giễu. Ánh đèn dầu vàng vọt soi lên mái tóc màu mật ong, soi lên
chiếc sống mũi thẳng. Tấm áo sơ-mi trắng trễ nải để hở một khoảng ngực
vạm vỡ và đôi cánh tay trần gân guốc. Gã đẹp trai và phóng túng, như
diễn viên trong một bộ phim cao bồi, giữa một quán rượu cũ kỹ miền Viễn
Tây. Tim tôi thắt nhẹ lại, hơi thở bị dồn lại nơi đó và ấm dần lên. Một
cảm giác êm đềm tràn tới, ngọt dịu đến độ tôi ngỡ mình đã quen gã từ một
kiếp nào đó. Tôi cúi đầu xuống, cố nói thật êm ái. Tôi biết mình có đôi
hàng mi dày mượt và cái chóp mũi rất đẹp. Những tấm hình mẫu tôi chụp
đều ăn ảnh trong tư thế cúi đầu này.
“Hi, chào anh.”
Gã đàn ông đáp lại bằng một giọng vừa ấm áp vừa giễu cợt, làm tim tôi thắt lại một lần nữa:
“Hi, chào em. Tôi có thể giúp gì được cho em?”
“Em đi tìm bác sĩ, có người bị thương trong phòng. Máu ra nhiều lắm.”
“Đó chỉ là một cơn ác mộng.”
Tôi ngẩng phắt đầu lên, mở to mắt nhìn gã:
“Cơn ác mộng nào chứ? Anh là ai?”
“Tôi là người em đi tìm. Bác sĩ Alois.”
Đầu óc tôi bỗng đâm ra ngớ ngẩn như lúc gặp cô gái ở quầy
tiếp tân. Tôi không sao kết nối được những chuyện lạ lùng đang chồng
chéo lên nhau. Một cô tiếp tân chỉ báo cho khách những tin kinh dị. Một
căn phố đêm hoang vắng không bóng người. Một bác sĩ nghe tin người bị
thương lại dửng dưng bảo là giấc mơ.
“Cái này không phải là giấc mơ. Em đang tỉnh táo mà.”
Tiếng bác sĩ Alois lại vang lên ấm áp, nhưng đã thôi giễu cợt:
“Em về đi, cứ đi thẳng. Hết con đường này là khách sạn. Đừng bao giờ trở lại đây nữa.”
“Nhưng còn một thằng nhỏ bị thương, đang nằm... trong tủ. Anh phải đi với em tới đó.”
Lẽ ra tôi phải nói “em không muốn rời xa anh”, bình
thường tôi vẫn có thể nói lưu loát câu này với mọi đối tượng ưng ý.
Nhưng không hiểu sao, ánh mắt Alois làm tôi chao đảo dữ dội, và trong
phút bối rối tôi lại nhắc tới thằng nhỏ đánh giày. Có vẻ như Alois biết
điều đó, ánh mắt gã dừng lại rất lâu trên môi tôi. Bỗng nhiên gã thở
dài, quay mặt đi:
“Tôi chẳng thể làm được gì. Tôi với Rai đang bị giam cầm
trong hàng núi công việc và khó khăn. Không thuốc men, không điện nước
và không cả sự quan tâm của chính quyền cố quốc. Thôi, em về đi. Buổi
tối nhớ khoá kín cửa phòng.”
*
Tôi trở về khách sạn khi ánh mặt trời vừa toả một vùng
ráng đỏ trên những mái nhà cao tầng. Tôi đứng ngơ ngẩn dưới lòng đường,
đưa mắt nhìn mãi vùng sáng ban mai. Lần đầu tiên tôi nghĩ về một ngày
mới, bằng một cảm xúc xôn xao.
Lân mở cửa phòng khi tôi bấm chuông. Khuôn mặt căng thẳng của Lân đang giấu dưới lớp xà bông cạo râu trắng. Gã dọ dẫm hỏi:
“Em vừa đi đâu về?”
Câu hỏi làm tôi an tâm, Lân không biết cả đêm tôi bỏ ra khỏi phòng. Tôi cười gượng gạo:
“Em đi dạo mát một chút.”
Nhưng rồi không cưỡng nổi sự sợ hãi, tôi đưa mắt nhìn về
phía tủ treo áo quần. Miệng tôi há ra, khô khốc và đắng nghét. Những lớp
băng keo dán trên mép cửa đã bị ai gỡ đi.
“Thằng nhỏ... thằng nhỏ đâu?”
Lân cười tàn nhẫn:
“Thằng nhỏ nào? À, à... nó chết rồi.”
Tôi ngồi sụp xuống mép giường, nước mắt bỗng trào ra nhoè
nhoẹt. Rất ít khi nào tôi khóc. Những điều hư thật lẫn lộn trong đêm và
vụ án mạng tàn khốc này làm tôi hoang mang kiệt quệ. Cả đêm tôi chạy đi
tìm bác sĩ cho nó, chẳng hiểu sao lại ngớ ngẩn trở về một mình. Bây giờ
nó chết rồi. Chắc là chết vì thiếu không khí. Tiếng Lân thoang thoảng
vọng tới. Chị Trung ở phòng bên cũng sang từ bao giờ, đang cùng Lân thì
thào bàn tính chuyện gì đó. Tai tôi như đang cố tình chống đối lại mọi
tiếng động. Nó ù đi cho tới lúc tôi bị Lân nắm vai giật mạnh. Giọng Lân
vang lên tức tối:
“Em nghe chưa? Không khóc lóc nữa. Anh có việc phải đi
gấp. Em ở lại đây chăm sóc chị cẩn thận. Không được rời khỏi phòng ban
đêm.”
Lân biết gì về những chuyện xảy ra ban đêm. Sao gã cũng
dặn tôi y hệt thằng nhỏ đánh giày và bác sĩ Alois. Tôi chưa kịp tìm hiểu
thêm, Lân đã hối hả ra đi. Chị Trung ngồi ở góc phòng, cặp mắt trong
veo nhìn chăm chăm về phía cửa tủ áo quần. Cái miệng vàng khè lẩm bẩm
không ngừng, nào là đấu tranh tư tưởng, nào là kiểm điểm nội tâm. Hình
như chị trò chuyện với cả thằng nhỏ chết trong tủ. Không phải lần đầu
tiên tôi chán ghét cảnh phải ở chung nhà với chị, nghe chị lảm nhảm liên
hồi. Cặp mắt trong veo, hàm răng thưa và cái trán hói nhăn nheo, chị
Trung giống thằng loạn óc Gollum. Xấu xí, độc ác và điên khùng. Người ta
cần gì sống cả trăm năm để rồi bị biến dạng gớm ghiếc như vậy.
Buổi sáng bên ngoài tràn qua khung cửa mang theo tiếng rao hàng rộn rã.
“Bánh bột lọc đây. Bánh nậm, bánh lá...”
Tôi lần ra cửa sổ. Con phố bên dưới tấp nập người và xe cộ.
*
Buổi chiều, Lân vẫn chưa liên lạc lại. Tôi gọi điện thoại, gửi tin nhiều lần nhưng không có hồi âm.
Tôi không muốn ở trong phòng một mình với cái tủ áo quần
có xác thằng nhỏ. Sau buổi ăn chiều với chị Trung, tôi đưa chị ấy về
phòng rồi mang máy chụp hình đi lang thang ra phố. Mặc kệ lời dặn dò của
Lân, tôi không thể ở cả ngày bên người chị chồng điên loạn đầy bất
trắc. Dẫu cuộc hôn nhân này là một bản giao kèo, đem tự do đổi lấy tiền
bạc, thì tôi vẫn có thể dứt bỏ bản giao kèo đó mà trở về cuộc sống lang
bang túng thiếu của mình.
Trời mưa những hạt nhỏ li ti rồi chợt hửng nắng. Bộ áo
đầm tôi đang mặc là áo dạ tiệc của tối hôm qua. Nó hơi hở hang và không
hợp với thời tiết nóng lạnh thất thường này. Nhưng tôi chỉ có hai bộ đồ
để mặc. Đám áo quần khác hiện treo trong tủ, nơi thằng nhỏ bị giam cầm. Ý
nghĩ phải mặc bộ đồ bốc mùi xác chết làm tôi nổi da gà. Mấy gian hàng
mốt thời trang màu sắc sặc sỡ như mời chào. Tôi ghé qua mua hai cái quần
jean và ba cái áo thun dài tay màu neon. Mấy cô bán hàng vóc dáng nhỏ
như con nít, cứ xúm xít giới thiệu hết thứ này tới thứ kia. Nhưng tôi
ngán quá, mua áo quần về rồi cũng không biết treo ở đâu. Dù chiều nay
Lân có quay lại đem xác thằng đánh giày đi, tôi cũng nhất quyết không sử
dụng cái tủ đó.
Tôi thả bộ qua mấy con đường nhỏ trồng bằng lăng. Thành
phố ban ngày đã mất đi vẻ bí ẩn, xiêu vẹo của ban đêm. Nó như hàm răng
xô lệch, cái sâu đen, cái mạ vàng. Nhà này thụt vô, nhà kia ló ra, mới
cũ lẫn lộn. Tôi đành đi vòng qua khu công viên chụp vài tấm hình hoa sứ
trắng, mấy cội mai vàng. Vài chàng trai ga-lăng bám theo bấm máy giúp,
cứ nhìn tôi trâng tráo. “Em đẹp như hoa hậu.”
Tôi chẳng thấy phiền hà gì mấy lời tán tỉnh qua đường.
Ngày nào còn được khen là còn mừng ngày đó. Tôi vui vẻ để chút thời gian
làm dáng cho mấy kiểu chụp cận cảnh, chút thời gian tán dóc với một anh
tóc dài ngang vai. Trên đường về lại khách sạn, tôi la cà ghé vô hàng
ghế đá bên lề để xem lại hình trong máy. Tôi có quá nhiều thời gian rảnh
rỗi trong khi chờ Lân về dọn sạch phòng. Màn hình hiện ra mấy tấm mới
chụp. Trời nắng tốt nhưng nụ cười người mẫu bệ rạc như xe máy hết xăng.
Tôi bấm tới khoảng tấm hình thứ mười, thì giật mình, suýt nữa làm rớt
luôn cái máy. Bên dưới những tấm hình tôi mới chụp, là hình thằng nhỏ
đánh giày. Nó nằm co ro bên chân bàn, hai cổ tay bị cột chặt bằng dây
điện. Cặp mắt nó đã dại đi nhưng vẫn còn đọng quầng nước mắt đau đớn.
Tôi nín thở kiểm tra lại toàn bộ hình ảnh. Chỉ có một tấm
hình duy nhất của thằng nhỏ lạc vô máy. Tôi mở lớn vị trí hai bàn tay.
Sự thật khủng khiếp hiện ra. Hai bàn tay thằng nhỏ tím bầm vì những lằn
dây điện, mà chắc là đã bị cột rất lâu trước khi bị tử thương ở đầu. Nó
không hề bị chị Trung lỡ tay xô té.
Mặt trời lặn dần sau những dãy mái nhà. Đốm đèn đỏ trên
máy chụp hình phụt tắt. Những ngọn đèn diện bên đường cũng biến mất.
Thành phố chìm dần trong vùng xám ảm đạm. Tôi ôm chặt máy chụp hình chạy
nhanh về khách sạn.
Quầy tiếp tân vắng lặng, chỉ có cô gái áo dài trắng ngồi cắm cúi đan len. Tôi hỏi gấp:
“Phòng 215. Có ai ghé qua hỏi chìa khoá không?”
Cô tiếp tân không ngừng tay đan:
“Không. Họ vừa ghé qua, lùng kiếm bác sĩ Alois và bác sĩ Rai.”
Tôi phóng chạy lên cầu thang. Hành lang bên trên đã cúp
điện tối thui. Tôi quay lại quầy tiếp tân, hỏi xin cây đèn dầu. Cô gái
áo trắng thờ ơ chỉ vô cây đèn duy nhất trên bàn. Tôi không khách sáo,
cầm luôn cây đèn lên cầu thang. Nhìn lại phía sau, cái bóng trắng đã
biến đi trong vùng tối. Ánh đèn dầu leo lét soi dọc con đường hành lang.
Tôi rón rén bước qua phòng chị Trung, chậm rãi mở cửa bước vô phòng
mình.
Cửa sổ đóng kín nên không khí trong phòng rất nóng và ẩm.
Máy điều hoà nhiệt độ do rút chìa khoá ra nên đã ngưng chạy. Cánh cửa
tủ áo quần vẫn đóng im ỉm. Khi tôi đẩy, nó chuyển động chậm chạp vì kẹt
phải mép mền nỉ. Cái xác thằng nhỏ hiện ra trong vùng sáng vàng vọt. Nó
ngồi co quắp lại. Mái tóc ủ rũ ló ra trên mép nỉ, gục giữa hai đầu gối.
Tôi không thấy vết thương trên đầu. Vết thương nằm ở phần bên kia, chìm
trong bóng tối.
Tim tôi bỗng thắt lại vì thương xót. Trong tư thế ngồi co quắp, nó nhỏ xíu và ốm yếu như con mèo. Tôi chắp tay đưa lên khấn nó:
“Em tha lỗi cho chị.”
Tôi lần tay theo mép mền nỉ, tìm cách mở vòng vải quấn
quanh bụng thằng nhỏ. Cái xác bây giờ đông cứng. Nó như khối đá bị kẹt
giữa bốn lớp gỗ. Phải vất vả lắm, tôi mới nới rộng được một khoảng mền.
Mồ hôi chảy dài từng dòng trên sống lưng. Hai bàn tay thằng nhỏ từ từ
hiện ra. Chúng bị cột chặt bằng dây điện thoại.
Có tiếng động bên ngoài. Tiếng mở cửa bên phòng chị
Trung. Tôi hốt hoảng đẩy cánh cửa tủ lại. Lần này nó chạy êm ru vì không
kẹt trúng góc mền. Tiếng chân dừng trước cửa phòng tôi. Hình như là có
nhiều người ở đó. Tiếng đập cửa gấp gáp. Tôi lo sợ chạy ra phía cửa sổ.
Bên ngoài cũng có người. Trong bóng đêm xám ngắt, tôi nhận ra những bóng
người đứng lố nhố dưới đường. Họ hăm hở chỉ tay lên phòng tôi. Ánh
trăng từ nơi nào đổ xuống, soi lên những khuôn mặt ma đói nhăn nheo.
Tôi lùi lại, giật mình nhận ra cái bóng đen thui của mình
in trên vách. Cây đèn dầu bên tủ áo quần soi một vùng sáng giữa căn
phòng. Tiếng đập cửa bên ngoài trở nên hung hãn. Hình như có kẻ nào dộng
báng súng lên cửa, như trong những bộ phim sát thủ. Tôi đoán, đoạn phim
tiếp theo sẽ là màn bắn nát ổ khoá. Tôi chạy tới, thổi tắt cây đèn. Cảm
giác đầu tiên là hoảng hốt, khi mình đột ngột rơi vào vùng tối đen.
Tiếng ai bất chợt hét lên giận dữ. Ngoài hành lang, có cái gì vừa rơi vỡ
trên nền nhà. Xa xa, tiếng pháo đì đùng kỳ quặc lại vọng về.
Những tiếng động bên ngoài nhỏ dần. Tôi đoán, họ đã bỏ đi vì không tìm ra nguồn ánh sáng.
Tôi ngồi lọt thỏm trong bóng tối. Hai hàm răng tôi đánh
lập cập vô nhau. Cả thân hình cũng run lên từng hồi, vì lạnh, vì sợ. Lần
mò chắp nối những chuyện xảy ra, tâm trí tôi bị cuốn chặt vô hình ảnh
thằng nhỏ bị trói hai tay.
Ai đã lấy máy của tôi để chụp hình xác chết? Chụp để làm gì?
*
Bên ngoài cửa sổ đã trở nên im ắng. Những cái bóng đen
ghê rợn đã biến đi đằng nào. Tôi lần ra cửa, cố lắng nghe động tĩnh. Vẫn
là một sự im lặng đầy đe doạ. Tôi nhớ tới lời căn dặn của thằng nhỏ
đánh giày và Alois. Rõ ràng, họ biết có sự nguy hiểm nào đó trong bóng
đêm. Nó bao vây và đeo đuổi tôi. Nó hiện diện ngay bên ngoài căn phòng
này. Tôi không ngừng nghĩ tới Alois, nghĩ tới khuôn mặt rắn rỏi và giọng
nói ấm áp của anh. Giờ đây, giữa thành phố chìm trong ác mộng cùng
những con người mang tội ác khủng khiếp, tôi chẳng còn biết bám víu vô
đâu.
Tôi lẩn quẩn trong phòng tới nửa đêm thì thay quần jean
và quyết định đi ra ngoài. Đầu tiên, tôi núp sau tấm màn cửa sổ, ném cái
gối qua ban-công. Cái gối trắng chao đảo một chút trong gió rồi đáp
xuống lề đường. Nó hiện ra trong bóng đêm như một đốm sáng mờ nhạt. Tôi
chờ năm phút, không thấy có gì khác lạ thì rón rén mở cửa chính, ló đầu
ra hành lang.
Bên ngoài hành lang tối om om, nhưng vẫn không có tiếng
động hay mùi vị gì khác thường. Tôi khấn thằng nhỏ đánh giày vài câu cho
đỡ sợ, rồi cầm chìa khoá đóng nhẹ cửa lại. Mấy ngón chân tôi rón rén
nhón đi qua cửa phòng chị Trung. Suy nghĩ của tôi một thoáng dừng lại
nơi Lân. Không biết cả ngày nay gã biến đi đằng nào.
Quầy tiếp tân tối thui vì mất cây đèn dầu. Hình như cả
khách sạn này chỉ có một cây đèn dầu. Tôi nhìn vô vùng tối tĩnh lặng nơi
cô gái áo dài trắng vẫn ngồi đan len. Cô ta không còn ở đó. Một cảm
giác khủng khiếp tràn qua suy nghĩ tôi. Ánh đèn. Phải rồi ánh đèn dầu
vàng vọt. Nó phải có một ma lực nào đó. Nếu nó không kêu gọi hiểm hoạ
thì nó đánh dấu vị trí hiểm hoạ. Bởi vậy mà thằng nhỏ đánh giày mới nói:
“Khách sạn này có thắp đèn.”
Tôi không dám chần chừ, bước vội ra bên ngoài. Giờ đây
nguy hiểm đã có mặt khắp nơi, chỉ còn chạy đua với thời gian. Tôi cắm
đầu chạy dọc theo con phố đầy hàng quán, nhưng vắng tanh. Mùi hương trầm
uẩn ức đuổi theo tôi mãi. Tôi nhận ra quán rượu, nơi tôi gặp Alois. Căn
quán vẫn bừa bộn như tối hôm qua. Những dĩa thức ăn dang dở mốc meo.
Những ly rượu rạn nứt nằm nghiêng ngả. Tôi không dám cất tiếng gọi. Mọi
tiếng động lúc này đều làm tôi sợ hãi. Tôi lần mò bước vô quán, bỗng ớn
lạnh nhận ra ở đây cũng có một ngọn đèn dầu leo lét. Hai mí mắt tôi giật
mạnh khi nhìn lên vách tường gỗ. Tấm lịch treo tường in ngày 30 tháng 1
năm 1968.
Tôi rón rén lùi lại, bước qua gian quán bên cạnh. Cũng
một ngọn đèn leo lét. Cũng tờ lịch treo trên tường ghi ngày 30 tháng 1
năm 1968. Cảm giác kinh hoàng xộc tới dựng đứng lớp da gà. Đây là khu phố
chết. Những tấm bảng chỉ đường mục rữa như bia mộ. Những quán hàng
hoang vắng chìm trong mốc thời gian cũ kỹ. Tôi nghĩ tới đó thì không
ngăn được nỗi bất an khủng khiếp. Ở trong góc tối tăm nào đó, những con
mắt bí ẩn đang lặng lẽ quan sát tôi. Cảm giác đó càng lúc càng lớn mạnh,
đến độ tôi cứ tưởng, những cái mụt ruồi trên thân thể tôi cũng nhảy vọt
ra khỏi lớp áo quần. Có người nào đó phía sau đang quan sát tôi. Ánh
mắt sắc lạnh vừa lướt qua bờ vai làm tôi bất chợt co rúm cả người. Rồi
không kiềm chế được nữa, tôi quay phắt lại nhìn vô bóng tối.
Bác sĩ Alois đứng lặng lẽ bên góc đường.
Tôi phóng ào tới bên anh, suýt nữa thì oà lên khóc. Dường
như Alois cũng mừng rỡ vì gặp lại tôi, khuôn mặt mệt mỏi của anh sáng
lên trong chốc lát.
“Lạy Chúa. Em quay lại đây làm gì, hả cô bé?”
“Em đi tìm anh. Họ có ghé qua khách sạn lùng bắt anh. Họ
cũng tới đó để bắt em. Thằng nhỏ đánh giày chết rồi. Hai tay nó bị cột
chặt bằng dây điện.”
Alois dịu dàng kéo tôi lại gần:
“Họ sẽ tiếp tục cuộc săn lùng cho tới khi giết chết được
tôi và Rai. Nhưng họ sẽ không giết được em, em thuộc về một thế giới
khác. Một thế giới vẫn còn có ngày mai.”
“Họ là ai?”
Alois lắc đầu, bàn tay anh chạm nhẹ lên tóc tôi, dừng lại ở đó rất lâu. Giọng Alois tràn ngập một nỗi niềm tiếc nuối:
“Em không nên ở lại đây. Sẽ không có sự thật nào dành cho người chết. Hãy rời khỏi thành phố này, ngay khi mặt trời mọc.”
Tôi không rõ Alois đang nói tới cái sự thật nào, thế giới
nào, ngày mai nào. Điều đó có gì là quan trọng. Tôi đã gặp lại anh và ở
bên anh, tôi thấy bình an. Tôi nói với Alois điều đó, nhưng Alois vẫn
lặp đi lặp lại bằng một giọng cương quyết:
“Tôi không thể làm được gì cho em. Tôi chỉ có thể đưa em
về tới cổng khách sạn. Và em phải hứa với tôi, ngay khi trời sáng phải
tìm cách rời bỏ thành phố bất hạnh này. Ngày mai đã là thời hạn cuối
cùng.”
Tôi ngơ ngẩn nghĩ: ngày mai nào? Ngày mai của tôi hay
ngày mai của mấy tấm lịch treo trong quán? Bàn tay tôi lần mò tìm nắm
bàn tay Alois, nhưng dường như anh hoảng hốt rụt lại. Không, chắc là tôi
lầm. Chẳng có người đàn ông nào hoảng hốt khi bị một người phụ nữ đẹp
nắm tay. Alois dẫn tôi đi qua con đường rất hẹp, đôi lúc phải thót bụng
lại mới lách qua được hai bờ tường. Không biết bằng cách nào, Alois cũng
lách được thân hình vạm vỡ mà đi qua. Con đường dẫn qua một cánh đồng
cát trắng, lồi lõm những hố sâu. Tôi vừa buồn ngủ, vừa mệt mỏi, cứ bám
theo cái áo sơ-mi trắng mà bước. Có lúc tôi cũng lơ mơ tự hỏi, mình có
nên tin con người này không. Nhưng tôi chẳng còn sự lựa chọn nào khác.
Khi gần sáng, hai đứa mới về tới con đường dẫn vô khách
sạn. Alois lùi lại để tôi lách qua hàng bông giấy rậm rạp. Giọng anh
vang lên gấp gáp:
“Hãy về khách sạn thu xếp hành lý và đi ngay khỏi đây.”
Tôi quay lại trả lời Alois, nhưng anh đã không còn ở phía sau. Cảm giác bị bỏ rơi làm tôi tủi thân và hơi tự ái.
Tôi đi thẳng một mạch ngang qua quầy tiếp tân. Cội mai
kiểng sáng nay bùng nở vàng rực. Tôi xốn xang nghĩ tới ngày mai là mùng
một tết. Tờ lịch trên tường ghi ngày 9 tháng 2 năm 2013.
Cô tiếp tân mặc áo veston trắng nhìn tôi cười rạng rỡ.
*
Sau bữa ăn trưa, tôi định về phòng ngủ một giấc. Đã hai
ngày tôi không hề chợp mắt. Giờ đây, cơn buồn ngủ kéo tới hung hãn làm
tôi chỉ còn muốn lăn quay ra giường. Nếu thằng nhỏ đánh giày có chui ra
khỏi tủ, tôi cũng cứ ngủ. Lời dặn khẩn thiết của Alois thoáng qua trong
đầu, nhưng tôi quyết định ở lại chờ Lân. Giữa tôi và gã còn một hợp đồng
chưa thanh toán xong.
Chị Trung biến đi đâu, không thấy có mặt trong bữa ăn.
Tôi cũng không muốn đi tìm. Ánh mắt Gollum trong veo của chị chỉ gợi lại
những điều bất trắc và kinh khiếp. Cũng không có tin tức gì của Lân.
Tôi đoán gã chưa tìm được người chịu làm công việc phi tang xác chết.
Lân là người cả quyết. Nếu đã nói gì, gã sẽ làm cho được. Nếu không tìm
được người, chắc chắn gã sẽ quay lại và tự mang cái xác đi.
Tôi bước qua khúc quanh hành lang dẫn về phòng. Hình ảnh
cánh cửa phòng tôi bị mở toang làm tôi suýt la rú lên. Chiếc xe đẩy dọn
vệ sinh nằm ngay trên hành lang. Tôi quên là những người làm phòng cũng
có chìa khoá, và họ có thể vô phòng khi tôi đi vắng.
Tôi đứng sững trên lối đi, không biết nên chạy về phòng
ngăn họ lại, hay trốn đi trước khi bị họ phát hiện. Chị làm phòng khuôn
mặt nhễ nhại mồ hôi bước ra. Chị không thấy tôi, nhưng tôi thấy chị. Tôi
thấy khuôn mặt bình thản thờ ơ của chị. Và tôi thở hắt ra một tiếng như
ho khan.
“Chị. Chị mới bắt đầu dọn à?”
Chị nhân viên khoảng độ trên ba mươi tuổi, thân hình mập
mạp, khuôn mặt hiền lành chất phát. Chị tròn mắt nhìn tôi đầy thiện cảm:
“Choa, cô đẹp như hoa hậu. Tôi dọn gần xong rồi, đang làm
tới phòng ngủ. Mấy cái áo thun cô bỏ bên ngoài tôi cũng treo luôn vô
tủ, cho gọn gàng...”
Như có ai đấm một cú vô ngực, suýt nữa tôi té nhào xuống
đất. Tôi phóng tới bên cánh cửa phòng ngủ, bủn rủn nhìn vô. Cửa tủ áo
quần mở toang hoang. Tiếng chị nhân viên nói như xin lỗi:
“Ủa, sao vậy? Có gì không vừa ý? Đồ đạc còn nguyên mà, tôi chỉ treo hai cái áo vô tủ.”
“Thằng nhỏ. Thằng nhỏ đâu?”
Tôi nhìn vô cái tủ trống trơn bên dưới. Tà áo dài cẩm thạch của tôi buông xuống thõng thượt.
“Thằng nhỏ nào? Thằng con cô hả? Làm gì có ở đây. Lúc tôi vô phòng...”
Tôi lập cập dúi tờ tiền hai trăm ngàn vô tay chị, nói như hết hơi:
“Không, không. Có thằng nhỏ hứa mang báo lên. Tôi mệt quá, muốn ngủ chút xíu. Chị cầm tiền...”
Chị nhân viên định nói gì thêm, chắc là hỏi chuyện bao
giờ quay lại dọn phòng, nhưng tôi đã đẩy chị ra ngoài và đóng sập cửa
lại. Cảm giác bây giờ không phải là khủng khiếp hay sợ hãi. Tôi chỉ mệt
mỏi cùng cực.
Chắc Lân đã về đưa xác thằng nhỏ đi. Tôi bỗng nôn nao nhớ
tới tấm hình nó bị trói hai tay. Không rõ ai đã chụp hình nó. Tôi tìm
cái giỏ xách tay nằm lăn lóc trong góc nhà. Nó đã được chị dọn phòng đặt
ngay ngắn lên ghế salon. Máy chụp hình nằm trong đó từ tối hôm qua. Tôi
bấm nút ON, màn hình nhấp nháy sáng.
Tấm hình trắng đen đầu tiên đập vô mắt, làm tôi muốn tắt thở.
Lân nằm co quắp bên lề đường, thân hình cháy loang lổ. Da
mặt Lân bị phỏng, căng phồng lên, nhiều chỗ nám đen. Nhưng tôi vẫn nhận
ra gã, bởi nụ cười đau đớn quen thuộc trong giấc ngủ. Không rõ vì sao
khi kề cận cái chết, gã lại cười. Tôi run run bấm lại máy. Toàn bộ hình
ảnh của tôi trong máy đã bị xoá sạch, chỉ có duy nhất một tấm hình Lân
nằm chết cháy.
Ai đó đã kiểm tra hình ảnh của tôi. Ai đó đã dùng máy của
tôi để chụp thi thể Lân. Có kẻ nào đó đã bám theo tôi và giết chết Lân.
Tôi bỗng nhớ tới lời nói của Lân trên máy bay: “Chúng ta sẽ lạc vô vùng
địa ngục và chỉ có một đứa quay trở lại.” Rõ ràng gã biết trước những
điều kinh khiếp sẽ xảy ra. Tôi cười rú lên như điên như dại, như vừa
đánh rơi cục đá tảng chặn ngang lồng ngực. Tôi cười tới sặc cả nước mũi.
Kẻ không quay trở lại là Lân. Chắc gã không ngờ tới điều đó.
*
Tôi ngủ thiếp đi bốn giờ đồng hồ, ngủ say như vừa thoát hết nợ nần.
Khi tôi tỉnh lại, trời đã về chiều. Tôi nghĩ tới cái chết
bất ngờ của Lân, nghĩ tới ngày mai không có gã, nghĩ tới cái may mắn
của mình, nghĩ tới chuyện gặp luật sư để truy cứu quyền thừa kế, nghĩ
tới những chương trình ca nhạc thời trang hoành tráng mà tôi sẽ dàn dựng
trong năm mới... Câu hỏi ban chiều bỗng đột ngột quay lại, đập vô đầu
tôi như nhát búa tạ. Ai đem xác thằng nhỏ ra khỏi phòng, khi Lân đã
chết? Ai đã dùng máy của tôi để ghi lại hình ảnh thảm khốc của Lân? Tại
sao? Để làm gì? Chị dọn phòng là ai? Thằng nhỏ đáng giày là ai? Alois là
ai?
Tôi vùng dậy, mở ipad tìm tin tức. Chỉ là cầu may, tôi
chẳng có điều gì để bám víu vô. Thông tin đầu tiên trên google dành cho
dữ kiện “bác sĩ alois” là khoảng 12800 kết quả. Trong đó ba người được
thường xuyên nhắc đến là, bác sĩ Alois Alzheimer, bác sĩ Alois
Altekoester, bác sĩ Alois Karlbauer. Tôi gõ thêm dữ kiện kết nối “năm
1968”. Google báo 2830 kết quả. Thông tin của đường link đầu tiên hiện
ra trên màn hình. Tôi choáng váng đọc qua hàng chữ:
“Sáu tuần lễ sau đó, thi thể của các bác sĩ Alois
Altekoester, Raimund Discher, Horst-Guenther Krainick, và bà vợ của bác
sĩ Krainick là Elisabeth, đã được tìm thấy tại các nấm mồ lộ thiên mà họ
đã bị buộc phải tự đào lấy cho chính mình.”
Bác sĩ Raimund. Có phải người thường được Alois gọi là Rai?
Có tiếng động nhỏ phía sau lưng. Tôi rùng mình sởn tóc
gáy. Hình như có kẻ nào đó đang hiện diện trong phòng. Tôi cố không nghĩ
đến nó, bây giờ đã quá muộn màng để bỏ chạy. Tay tôi bấm nhanh lên
những đường links, cố gắng đọc lướt qua đám thông tin hỗn độn để tìm ra
một sự thật khả dĩ.
“Các hố cách khoảng nhau. Một hố có khoảng 10 đến 20
người. Trong các hố, người thì đứng, nào là nằm, nào là ngồi, lộn xộn.
Các thi hài khi đào lên, thịt xương đã rã ra. Trên thi hài còn thấy
những dây lạc trói lại, cả dây điện thoại nữa, trói thành chùm với nhau.
Có lẽ, họ bị xô vào hố thành từng chùm. Một số người đầu bị vỡ hoặc bị
lủng. Lủng là do bắn, vỡ là do cuốc xẻng.”
“Rồi thì nhiều ngôi mộ tập thể khổng lồ của phụ nữ
và trẻ em được tìm thấy. Hầu hết đều bị đập vỡ đầu cho đến chết, một số
thì bị chôn sống; quý vị có thể nhận biết điều này từ các bàn tay được
cắt, đánh bóng và sơn móng thật đẹp đẽ của các phụ nữ cố gắng cào bới để
chui ra khỏi các nơi họ bị chôn sống.”
Bên ngoài trời đã sẫm màu. Bước chân người nào đó lết tới
gần bên tôi. Hơi thở hôi hám như xác chết của nó toả lên gáy tôi một
vùng lạnh lẽo. Hình như nó cũng đang cúi xuống đọc những điều kinh khiếp
trên màn hình. Giữa lúc đó, màn hình phụt tắt. Căn phòng mất điện, đột
ngột chìm trong bóng tối. Sợi dây mỏng tanh vội vã choàng qua cổ tôi, bị
mất phương hướng, trượt xuống phần vai. Tôi nhấc ipad lên, dùng hết sức
lực quật mạnh về phía sau.
*
Tiếng chị Trung hét lên rùng rợn. Bị cú quật của tôi chém
vô giữa mặt, mụ ta té nhào xuống đất. Trong bóng tối nhập nhoạng của
ngày tàn, khuôn mặt bằng đất rạn ra từng mảng, kêu răng rắc. Bàn tay
khẳng khiu vẫn hung hãn vươn tới, chộp trúng vô cổ chân tôi. Tôi trở
nhanh người, dẫm mạnh bàn chân còn lại lên cánh tay con quái vật rồi
phóng chạy ra cửa. Tiếng mụ đàn bà hét lên kinh khiếp như đe doạ, như
báo động. Bóng đêm đổ xuống thành phố mang theo tội ác.
Tôi chạy dọc con đường cũ dẫn ra khu hàng quán. Sương đêm
đậm đặc đến độ không thấy cả những hàng cây ven đường. Sương đọng ướt
tóc, ướt lông mày, ướt cả lông mi. Mùi hương khói, mùi thuốc pháo, mùi
nguy hiểm bao trùm không gian. Trong màn sương mờ đục, dãy hàng quán
đang bốc cháy ngùn ngụt dần hiện ra. Khác với những đêm trước chìm trong
im lặng, lần này tôi nghe từ trong chốn xa xăm nào đó tiếng đạn pháo,
tiếng người la hét. Những âm thanh cứ rõ dần và càng lúc càng trở nên
náo loạn. Mặt đất quanh tôi rung chuyển như có hàng nghìn con người từ
dưới đất bò lên.
Tiếng la hét dữ tợn, tiếng gào khóc kinh khiếp vọng tới
từ bốn phía. Tôi không còn biết chạy đi đâu, chỉ đứng bám vô gốc cây
trong nỗi sợ hãi hoảng loạn. Bàn tay ai giật mạnh khuỷu tay tôi. Giọng
nói gấp gáp của Alois vang lên:
“Đi theo tôi.”
Tôi nắm chặt lấy bàn tay Alois để anh đừng biến đi. Hai
đứa đâm vô màn sương trắng chạy vào con đường nhỏ bên trái. Tiếng động
phía sau cứ nhỏ dần rồi mất hút. Chúng tôi chạy ra tới cánh đồng cát,
rồi đi chậm lại. Ruồi bay từng đàn lơ lửng như những mảng sương xám. Mấy
cái hố sâu cách khoảng nhau làm tôi rợn người nghĩ tới những hình ảnh
tìm được trên google. Có bao nhiêu phần sự thật trong đám thông tin mạng
hỗn độn đó. Dưới kia, trong những cái hố đen ngòm, từng bàn tay phụ nữ
có những cái móng sơn bóng đẹp đẽ đang cố gắng đào bới để chui ra khỏi
mặt đất. Cảm giác buồn nôn đặc sệt dâng lên trong cổ họng. Bất giác bàn
tay tôi lại tìm nắm lấy bàn tay Alois. Anh hiện ra gần gũi và ấm áp. Tôi
chạm ngón tay mình lên vùng sáng mong manh của mái tóc vàng. Tóc Alois
ướt đẫm sương đêm. Tôi nghẹn ngào thì thầm:
“Alois, bây giờ em đã biết anh là ai.”
Khuôn mặt Alois chìm trong màn sương mờ mịt.
“Vậy em có biết mình là ai không?”
Tôi oà lên khóc. Cảm giác quen thuộc trong lần đầu gặp gỡ
Alois bỗng trỗi dậy, giờ đây tôi muốn tin là từ kiếp nào tôi đã quen
anh. Alois đưa ngón tay lên, thận trọng chạm vào mắt tôi, kéo dài theo
những giọt nước mắt lăn trên má. Giọng nói của anh mang nỗi đau thăm
thẳm:
“Quá khứ của anh cũng chỉ là những mảnh vỡ từng ngày bị người ta nghiền nát. Em đừng khóc nữa. Mình nên chia tay nhau ở đây.”
“Tại sao lại chia tay? Anh phải đi cùng em ra khỏi thành phố ma quỷ này.”
“Anh không thể. Linh hồn của anh đã bị họ giam giữ trong vùng vô minh.”
Tôi mở to mắt nhìn Alois, cố hiểu được những điều rắc rối
đó qua nét mặt nhạt nhoà sương trắng. Nhưng tôi không thể tìm được điều
gì ngoài một khoảng cách lạnh lùng. Tôi không có kiến thức về những
điều bí ẩn gọi là linh hồn và quá khứ. Một cô hoa hậu hai mươi hai tuổi
với thâm niên sáu năm lăn lóc trong làng showbiz biết được nhiều chuyện
kỳ lạ, biết được những trò cầu hồn bói toán, lên đồng lên cốt, nhưng lại
mù tịt chuyện linh hồn. Tôi đành lắc đầu bỏ qua những câu nói phức tạp
của Alois:
“Mặc kệ chuyện linh hồn...”
Anh giật mình như bị đánh trúng. Tôi căng thẳng lựa lời nói tiếp:
“Em chẳng cần tới cái gọi là linh hồn hay... quá khứ hay... vô minh. Hãy đi cùng với em.”
Trong màn sương nhạt nhoà, đôi mắt nâu sẫm của anh hiện
ra long lanh. Sương đọng từng hạt nhỏ li ti trên hàng mi dày. Tôi bỗng
khao khát được đặt môi mình lên đôi mắt đầy đam mê đó. Tôi yêu anh. Yêu
ngay từ cái nhìn đầu tiên, yêu từ một kiếp nào đó. Chẳng có gì xấu hổ,
nếu lúc này tôi nói với anh tình cảm của mình. Nhưng một cái gì rất êm
đềm sâu thẳm, như một điều bí ẩn kỳ diệu, ngần ngại níu giữ lời nói của
tôi lại. Tôi thận trọng đưa bàn tay của Alois lên. Ánh sao huyễn hoặc
soi lên những vết thâm tím kinh hoàng ở cổ tay. Cũng như thằng nhỏ đánh
giày, thân thể Alois mang dấu vết của sự thật ghê rợn. Nước mắt tôi nhỏ
lên cổ tay chàng. Bất chợt Alois ôm tôi vô lòng, tiếng nói nghẹn đi
trong nỗi niềm day dứt:
“Anh yêu em. Yêu ngay từ cái nhìn đầu tiên và thầm mong em đừng quay lại nơi này.”
Tôi áp mặt mình lên ngực Alois lắng nghe vùng tĩnh lặng,
không nhịp đập của thân thể anh. Cảm giác bình an kéo tới, như cuộc đời
tôi chưa từng có sáu năm bị vùi dập bên lề những cuộc vui, như không hề
có mối hiểm nguy đang rình mò trong bóng đêm. Tôi nghĩ đến vòng tay che
chở của người đàn ông đang ôm ấp mình. Tôi nghĩ đến đôi mắt màu nâu sẫm
ấm áp như có lửa của Alois. Nghĩ đến đôi môi của anh.
Tiếng súng liên thanh bắn một tràng dài bên kia cánh đồng
cát. Chó trong làng sủa rộ lên từng hồi hoảng loạn. Alois chỉ tay về
hướng có tiếng súng, run giọng như khóc:
“Bên đó là bệnh viện tiểu khu. Chắc họ đã bắt được Rai.”
Tôi lo lắng kéo tay Alois:
“Chúng ta đi thôi.”
“Họ đã bao vây khắp nơi. Nhưng em chỉ cần qua sông là thoát.”
Tôi muốn hỏi Alois: tại sao chỉ một mình tôi qua sông?
Chẳng lẽ anh muốn quay lại tìm Rai? Nhưng Alois đã đưa tay lên miệng
suỵt nhỏ. Anh kéo tôi đi vô một con đường ruộng lầy lội. Mặt đất cứ thấp
dần và không khí trở nên ẩm ướt. Thình lình có tiếng đạn lên rôm rốp.
Tiếng ai hét lên lanh lảnh mà nếu tôi không lầm, đó là tiếng mụ chị
chồng hung ác. Mụ ta đã bám theo dấu vết của tôi, đuổi tới tận nơi.
Sương lúc này đã tan, nhưng trời vẫn tối đen mịt mùng.
Chúng tôi nương theo bóng tối vượt qua cánh đồng xâm xấp nước. Thình
lình, bầu trời sáng loá lên như muốn nổ tung. Một khối lửa rất to vụt
cháy bùng trên cao, toả một vùng sáng đỏ ối, rồi nó nhỏ dần, đong đưa lơ
lửng giữa bầu trời. Cánh đồng chìm ngập trong vùng sáng màu cam ma
quái. Những cụm cây, gò đất bây giờ hiện ra mờ ảo như những bóng ma. Tôi
chưa hề nhìn thấy cảnh tượng nào khủng khiếp như vậy. Tiếng Alois thì
thầm bên tai:
“Hoả châu.”
Alois đẩy người tôi cúi rạp xuống. Hai đứa gần như bò đi
trên mặt đất đầy sình và rơm rạ. Cái bóng mụ Trung mặc áo mưa đen, tóc
tai ướt rũ rượi, lăm lăm súng đứng trên gò đất. Năm người bên cạnh, mặc
bà ba đen, đội nón vải, không rõ đàn ông hay đàn bà. Họ ở gần tới độ tôi
tưởng như nghe được tiếng thở nghèn nghẹt của họ. Suýt nữa thì tôi
phóng chạy. Nhưng Alois kéo tôi lại. Hai đứa lách qua lùm cây, tuột vô
một khoảng trống tròn nhỏ sâu hun hút, mà tôi đoán là cống thoát nước.
Bước chân người dẫm ngay trên đầu tôi. Đất rơi xuống từng
cục nhỏ. Tôi nhắm mắt lại, ép chặt vô lòng Alois. Mụ Trung bên trên ra
lệnh:
“Lục soát. Tìm cho ra nhân chứng.”
Đất vỡ từng mảng phía sau lưng. Tiếng giậm thình thịch
lan đi như búa đập từng nhát vô màng tang tôi. Thình lình một cơn đau xé
thịt ập tới. Bả vai tôi như bị đốt cháy. Tôi há miệng ra hét lên.
Tiếng hét của tôi bị giữ lại trên bờ môi. Nụ hôn của
Alois tìm đến như sóng cuốn. Đôi môi anh khô ấm và thoảng mùi của đất.
Tôi lịm đi trong cơn đau xé thịt và nỗi đam mê dào dạt. Bàn tay Alois
lần trên vai tôi, đè mạnh ở một chỗ nào đó. Một nửa thân người tôi tê
dại. Cảm giác đau đớn dịu đi, chỉ còn đôi môi anh đầm ấm và ngọt ngào vô
tận. Tôi nằm tê dại trong lòng anh, cho tới lúc đám người trên đầu bỏ
đi.
Alois xé tấm áo sơ-mi trắng, băng bó vết thương trên vai
tôi. Khi đó tôi mới biết, vai phải của tôi bị lưỡi lê xuyên trúng, hình
như khá sâu. Máu thấm ướt một khoảng trên vai, chảy từng dòng xuống
ngực. Tôi gần như lả đi, tay chân mềm nhũn, yếu ớt vô cùng. Alois siết
chặt mối vải cuối cùng, cúi xuống bên tai tôi, thì thầm:
“Cô bé, chúng ta phải đi thôi.”
Anh bế xốc tôi qua cánh đồng. Đâu đó tiếng sóng nưóc rì
rào vọng lại. Bầu trời trên cao đen thẫm mịt mùng. Tôi áp môi mình lên
bộ ngực trần vạm vỡ và thiếp đi.
Tôi tỉnh lại, khi những tiếng la náo loạn từ nơi nào vọng
tới. Tiếng của mụ Trung. Tiếng đạn bắn. Tiếng sóng nước xô rào rào. Tôi
chống cánh tay trái ngồi dậy, mới biết mình đang nằm trên con thuyền
nhỏ. Alois ngồi ở đuôi thuyền đang ra sức chèo. Cuối chân trời hiện ra
một màu sáng hồng. Những cái bóng trên bờ giương súng, chỉ chỏ về hướng
chúng tôi. Một loạt đạn vang lên hung tợn. Nước quanh thuyền bị bắn toé
lên từng cụm.
Alois quát nhỏ:
“Nằm xuống, nằm sát xuống thuyền.”
Súng trên bờ vẫn tiếp tục gào lên những âm thanh chết chóc. Giọng mụ Trung lại vang lên the thé giữa tiếng nổ:
“Bắn. Không để đứa nào thoát khỏi đây.”
Alois nói gấp qua hơi thở:
“Nếu anh có chuyện gì. Em phải cố chèo sang bên kia bờ.”
Những múi thịt trên vai anh cuồn cuộn đẩy thuyền đi.
Thình lình thân người Alois chao đảo. Cặp mắt anh mở lớn nhìn sững về
phía chân trời. Tôi nhổm dậy, lao về phía anh và hét lên:
“Đừng. Alois. Đừng.”
Alois té sấp qua mạn thuyền rồi rơi xuống nước. Bàn tay
tôi chuồi tới chỉ nắm hụt vào khoảng không. Con thuyền chòng chành dữ
dội, nước tràn ào ào qua mạn. Tôi thò tay xuống mặt nước gào lên, gọi
tên Alois. Đạn vẫn bắn từng hồi tung toé xung quanh, nhưng ý nghĩ phải
chia tay anh vĩnh viễn làm tôi liều lĩnh.
Mái tóc đẫm nước của Alois bỗng lềnh bềnh ngoi lên bên mạn thuyền. Trên khuôn mặt xanh xao là nụ cười buồn bã, tuyệt vọng:
“Em chèo đi. Bên kia bờ là cuộc sống.”
Máu loang một vùng đỏ bên dưới cổ anh. Tôi bật khóc, đưa
tay muốn giữ khuôn mặt Alois lại. Nhưng bàn tay trái của tôi chỉ vừa đủ
ôm lấy một bên má của anh. Trong ánh bình minh nhập nhoạng, khuôn mặt
Alois hiện ra gần gũi yêu thương hơn bao giờ hết. Tôi cúi xuống, đau đớn
đặt môi mình lên môi anh:
“Đừng xa em.”
Tiếng tên sát thủ vọng tới như lệnh tử hình:
“Nhằm thẳng vào đầu nó.”
Tôi hét lên, giật cánh tay bị thương ra khỏi vòng băng.
Hai tay tôi choàng xuống nước, kéo đôi vai Alois sát vô mạn thuyền. Thân
hình Alois bỗng giật nảy lên rồi nặng nề chìm xuống. Hình ảnh cuối cùng
tôi còn giữ được là khuôn mặt yêu thương bị biến dạng nhạt nhoà trong
dòng nước đỏ.
Hừng đông phủ lên dòng sông một vùng sáng thê lương. Bóng
đen cầm súng của mụ Trung lùi dần về chốn xa xăm. Nụ cười hả hê thoả
mãn để lại trên gò đất một khoảng vàng nhờ nhợ.
Tôi cúi đầu xuống, đặt môi mình lên mặt nước ngầu đục thì thầm:
“Alois. Mùa xuân sang năm em sẽ trở lại nơi này tìm anh.”
Tháng 2 - 2013
Lưu Thuỷ Hương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét