Ngày 3 tháng 5, Bistritz
Vùng đất mà tôi tìm thấy
trên bản đồ nằm ở miền Đông xa thẳm, lưng chừng
trong khoảng biên giới ba nước Transylnavia, Moldavia và
Buconiva, giữa dãy Karpaten. Một vùng đất hoang dã ít được
biết tới nhất ở châu Âu. Tuy nhiên, không có một bản
đồ hay cuốn sách nào giúp tôi xác định được vị trí
chính xác của lâu đài Dracula.
(Jonathan Harker)
***
Ngày 5 tháng 7, Constanta
Tôi gấp cuốn nhật ký của
Jonathan Haker lại, nghiêng đầu nhìn ra ô cửa sổ máy
bay.
Mặt đất bên dưới hiện ra
hình con dông lửa hung tợn từ đất liền trườn ra biển
rộng. Nó đẹp và kỳ vĩ hơn tấm ảnh ở văn phòng mua
bán bất động sản của cha tôi rất nhiều. Sau khi cha
tôi tự quyên sinh, tôi đã bỏ nhiều ngày tháng để
nghiên cứu những tấm hình lạ lùng mà ông chụp được
trên máy bay trực thăng. Nhưng những thắc mắc bất tận
về cái chết bí ẩn của Patrick Harker chỉ chồng chất
thêm theo ngày tháng.
Chiếc airbus A318 đổi hướng, hạ
độ cao chuẩn bị đáp xuống phi trường. Tai tôi ù đặc
khi máy bay vùn vụt đâm cánh xuống đầu con bò sát. Qua
màn mây mỏng, con mắt đỏ rực độc ác của tên quái
vật mở ra, nhìn xuyên qua cửa kính. Nó nhận ra tôi, bộ
vây nhọn bên hông dựng đứng như đe doạ.
Máy bay dội ngược lên chạm
chân vào mặt đất. Hệ thống thắng gào thét dữ dội
khi con chim sắt vẫn lao ầm ầm về phía trước. Tôi rùng
mình nhìn ra kè đá chắn biển. Sóng hung hãn tràn lên như
muốn cướp lại phần đất biển bị con người tước
đoạt. Từng mảng bọt trắng xoá tung mình qua kè tiến
sát tới tận đường băng. Chiếc airbus dừng lại ngay
cuối phi đạo ngắn, như một phép màu.
Tôi lấy hành lý và đi tìm chỗ
ăn chiều. Lịch trình ghi rõ, sẽ có chuyến xe bus khởi
hành về Bistritz lúc mười hai giờ đêm. Từ Bistritz sẽ
có chuyến xe về Bucovina. Xe gì, số mấy thì không được
ghi rõ. Thật ra, tôi cũng không nhất thiết phải tới
Bucovina, bởi vì vùng mỏ quặng aluminium nằm trên dãy
Karpaten. Lúc đầu tôi rất bực mình vì lịch trình luộm
thuộm này. Lẽ ra tôi có thể đáp chuyến bay thẳng tới
Bistritz hay Kraków. Từ đó thuê xe chạy về Karpaten. Bà
thư ký trả lời tôi dè dặt, thưa ông, phí di chuyển do
bên đối tác chi trả nên họ có quyền lên lịch trình.
Chỉ có ba người rời sân bay ra
bến đợi xe bus vào giờ khắc oái oăm. Một người đàn
ông Á Châu trạc ngũ tuần, đôi mắt đen u buồn, thân
hình nhỏ thó lọt thỏm trong tấm áo khoác nhân viên Hồng
Thập Tự. Một người đàn bà vóc dáng nông dân, bộ váy
cổ truyền xứ Transylnavia bằng lanh trắng, khăn trùm đầu
cũng màu trắng. Khi giúp bà ta khuân cái va li nặng trĩu
lên xe đẩy, tôi thấy họ bà là Costin. Trên va li chỉ có
họ, không có tên, không cả địa chỉ.
Trời đêm mùa hè u ám. Gió lạnh
từ rừng thông thổi xuống ào ạt, đánh tốc những bụi
cây khô quanh trạm xe. Tôi co mình trong tấm áo khoác thể
thao mỏng, nóng lòng nhìn ra con đường đất độc đạo
dẫn vào sân bay. Con đường ngoằn ngoèo chìm trong ánh
đèn vàng heo hắt mang một nỗi cô liêu dữ dội. Tôi bắt
chuyện với người đàn ông bên cạnh:
- Ông đi về đâu?
- Bistritz. Còn anh?
- À. Tôi cũng đi Bistritz.
Người đàn ông cười thân
thiện, nhưng nụ cười của ông ta có vẻ gì đó rất
miễn cưỡng và ủ đột.
- Từ Munich đáp máy bay xuống
Constanta để đi đường bộ về Bistritz?
Kỳ lạ, tại sao ông ta biết tôi
từ Munich tới. Tôi chột dạ nhìn xuống tấm thẻ hành
lý đeo trên va li, trả lời dè dặt:
- Tôi đi theo lịch trình của
công ty.
- Tôi cũng vậy, tới Bistritz để
nhận công tác thiện nguyện - Người đàn ông mặc áo
Hồng Thập Tự tiếp tục câu chuyện.
Tôi cố cười để xoá tan bầu
không khí u ám đang vây phủ.
- Tôi chỉ sợ rằng, tới
Bistritz rồi phải đi xe bò về Bucovina.
Ánh đèn đường buông một vùng
héo úa trên khuôn mặt xám ngắt. Giọng người đàn ông
lạc đi trong gió:
- Tại sao anh muốn tới Bucovina?
Tôi ngẩn người, không đáp
ngay. Tại sao? Có gì bất thường khi tôi muốn tới
Bucovina? Cách hỏi chuyện của người đàn ông này hơi kỳ
quặc, dù dáng vẻ u buồn của ông ta trong tấm áo Hồng
Thập Tự lại gợi nên một sự cảm thông và gần gũi.
- Tôi tới vì hợp đồng mua bán
đất đai ở Karpaten.
Tôi nghe thiếng thở hắt của bà
Costin phía sau. Người đàn ông Á Châu bỗng "à"
lên một tiếng kiểu như, hoá ra là vậy, tên này đi mua
đất ở Karpaten. Rồi không cần giấu giếm, ông ta nói
vẻ khó chịu:
- Hy vọng anh nhanh chóng hoàn
thành công việc.
"Và nhanh chóng ra đi."
Tôi nghi rằng ông ta muốn nói thêm như vậy.
- Từ đây tới Bistritz mất bao
nhiêu lâu?
- Một vài giờ.
- Thật là thú vị. Một vài giờ
vượt qua năm trăm cây số đường núi rừng hiểm trở -
Tôi ra vẻ nhã nhặn gật đầu.
Người đàn ông đáp lại bằng
một thứ tiếng Đức rất chuẩn:
- Denn die Toten reiten schnell. Bọn
người chết phóng ngựa rất nhanh.
Tôi ngạc nhiên tới nghẹn giọng.
Không phải vì nghe một người Á Châu nói tiếng Đức
trôi chảy. Ở Bistritz có hơn sáu mươi phần trăm dân số
nói tiếng Đức. Tôi ngạc nhiên vì, câu nói này đã được
ông cố tôi ghi lại trong nhật ký, khi đứng ở Bistritz
chờ xe đưa về Bucovina. Nó mở đầu cho cuộc hành trình
ma quái và chết chóc. Tôi cố gạt đi cảm nghĩ đó,
nhưng dường như tôi đang bị cột chặt vào cuốn nhật
ký của ông tôi.
Bà Costin gần như co rúm lại vì
câu nói của người đàn ông. Tôi đồ rằng, bà ta cũng
hiểu nghĩa nó, và hiểu bằng sự sợ hãi. Bà ta tiến
tới gần tôi, cặp mắt để lộ con ngươi vàng khè giãn
to. Khi đó, dưới ánh đèn đường, tôi mới nhận rõ
những nếp nhăn dữ dội trên khuôn mặt lẩn khuất sau
lớp vải trùm đầu màu trắng. Bà ta rất già. Có lẽ,
tuổi một trăm đầy vất vả đã ở lại xa lắc phía
sau lưng. Bà Costin mấp máy đôi môi mỏng trĩu cong thì
thầm:
- Xin anh đừng tới đó, đừng
tới đó vào tháng này, tháng bảy này.
Người đàn bà tội nghiệp đang
ở trạng thái kích động. Những từ ngữ tuôn ra như bị
dính chùm vào nhau. Tôi không tin vào truyền thuyết
Dracula. Thế hệ của tôi không còn ai tin vào chuyện ma
quỷ bịa đặt. Những kẻ vô công rỗi nghề đã sáng
chế ra những câu chuyện thương tâm, để biện minh cho
cố gắng đầy thất bại của họ trong cuộc sống. Luôn
có một thế lực cản trở sự thăng tiến của họ, đó
là thế lực u tối của ma quỷ. Không, tôi chẳng bao giờ
tin vào những điều đó. Cuốn nhật ký của ông cố tôi
chỉ thuần tuý là một tác phẩn văn chương, mà loại
văn chương giải trí, hoàn toàn không có giá trị thực
tế. Tôi tới đây theo lời mời của ngài thị trưởng,
nhằm vào vùng đất hoang còn chưa được những nhà doanh
nghiệp đánh giá cao. Mỏ quặng aluminium ở Karpaten là mối
quan tâm hàng đầu của công ty chúng tôi.
Tôi lịch thiệp trả lời:
- Thưa bà, tôi vì công việc phải
tới đó.
- Tháng bảy là tháng của oan
hồn, tháng của những kẻ chết oan, tháng xẻ đất, xẻ
thịt người ra bán.
Nỗi kích động của người đàn
bà như những mũi tên, chúng ập vào cơ thể tôi bằng
một đợt ớn lạnh. Điều này làm tôi khó chịu. Nhưng
bà ta có vẻ như suy sụp hoàn toàn, nên tôi cũng không nỡ
bỏ mặc bà trong sự sợ hãi. Tôi cố gắng dịu dàng tới
mức mà một người đàn ông có thể nguỵ tạo được.
Tôi nắm lấy cánh tay áo của bà Costin và nói nhỏ:
- Xin bà đừng lo, gia đình tôi
đã có bốn thế hệ từng tới đó, và yên ổn trở về
- Tôi không được phép nói cho bà ta biết, ông nội tôi
Quincey Harker và cha tôi Patrick Harker đã chết bất đắc
kỳ tử sau khi "yên ổn trở về".
- Gia đình ông?
- Tôi là Ray Harker.
- Dòng họ Harker?
Người đàn ông Á Châu bất ngờ
kêu lên một tiếng giận dữ.
- Hoá ra là người của dòng họ
Harker? Các anh muốn tìm gì ở vùng đất đó? Nỗi lầm
than của người nông dân? Hay máu của kẻ vô tội? Hay
một cuộc phiêu lưu ti tiện của bọn nhà giàu?
Tôi không hiểu vì sao giọng nói
ông ta bỗng hoá ra cay nghiệt khi biết tôi mang họ Harker.
Chế độ phong kiến Mihai đã bị làn sóng đỏ tiêu huỷ
vào năm 1947. Những người lãnh đạo phong trào nông dân
bị cộng sản xử tử. Đảng dân tộc dân chủ bị xoá
sổ. Hình ảnh bá tước Dracula cũng bị những kẻ vô
thần đẩy lùi vào bóng tối. Nhưng quá khứ máu me đó,
bây giờ có liên quan gì tới tôi. Nỗi đau khổ lầm than
của những con người thời tao loạn đó, liệu có dính
líu gì tới hợp đồng mua bán sòng phẳng của công ty
chúng tôi. Tôi vẫn nhã nhặn trả lời bà Costin, không
phải vì lương tâm cắn rứt, mà tương lai của công
việc. Hơn nữa, không khí buồn bã ảm đạm đang buông
phủ vùng đất viễn du này làm tâm hồn tôi trở nên
nhạy cảm bất thường.
- Thưa bà, tôi sẽ cố tránh xa
nỗi đau của người khác.
Người đàn bà nông dân có vẻ
xúc động vì câu trả lời của tôi, dù nó được nghĩ
bằng một sự ích kỷ hơn là thiện chí. Bà lóng cóng
cởi sợi dây tỏi tết đeo ở cổ, nhưng bàn tay cứ run
lên bần bật làm sợi dây vướng ngang nút thắt khăn.
Cái khăn bị kéo tuột ra khỏi mái tóc bạc trắng. Đôi
mắt người đàn bà đẫm nước trên khuôn mặt đầy
những vết đồi mồi nhăn nheo. Bà Costin trao cho tôi cây
thánh giá đẽo bằng gỗ đeo trên sợi dây tỏi trắng.
Mẹ tôi là người Đức, tôi sanh ra lớn lên ở Đức,
không ăn tỏi, và rất sợ mùi tỏi. Biểu tượng linh
thiêng đi cùng với thứ gia vị hôi hám làm tôi thêm bứt
rứt.
- Xin anh hãy đeo nó trên ngực.
Hãy luôn mang nó theo bên mình. Vì mẹ anh, vì những người
thân yêu của anh, xin hãy luôn giữ nó bên mình.
Tôi nắm sợi dây trắng trong
tay, không biết phải nói gì với người đàn bà xa lạ.
Bà ta có cái vẻ tốt bụng và chân thật của một người
nông dân chân lấm tay bùn. Giữa lúc đó, bốn cái đầu
ngựa đen đủi đột nhiên hiện ra giữa vùng sáng u ám.
Chúng lao thẳng tới chỗ tôi bằng một vận tốc kỳ
quái, nhanh tới độ, tôi chưa kịp thở ra một hơi, cả
cỗ xe đã đứng sờ sờ ngay bên cạnh. Tấm áo choàng đỏ
tung phần phật che cả một khoảng trời đêm. Tôi giật
mình lùi lại, bàn tay cầm sợi dây tỏi tự động đẩy
vào túi áo.
Gã xà ích có nước da trắng
xanh xao, khuôn mặt tối tăm. Hắn nói tiếng Đức theo
kiểu biến âm u thành ue, âm a thành ae, lại rất nặng ở
phần phụ âm. Hắn gọi tên tôi, ánh mắt xuyên qua lớp
bụi đường quất thẳng gió lên mặt.
- Herr Harker? Ngài thị trưởng
cho xe tới đón ông.
Cặp môi đỏ tươi và hàm răng
trắng nhởn trên bộ mặt xanh xao, dưới ánh đèn đêm
trông thật quái dị. Bà nông dân run lẩy bẩy, cố ngước
cặp mắt ướt đẫm nhìn tôi. Đôi môi bà nhấp nháy
không thành tiếng. Tôi đọc được ở đó lời van xin
tuyệt vọng.
- Xin anh đừng bước lên chiếc
xe ma quỷ đó.
Tôi quay sang gã xà ích, nói cho
rõ:
- Theo lịch trình, tôi phải đi
xe bus về Bistritz. Từ đó mới có xe đón về Bucovina.
Gã xà ích quét cặp mắt sắc
lẻm lên hai người đồng hành của tôi. Cặp mắt gã
xanh lè như mắt chó sói.
- Ngài thị trưởng không muốn
ông bị bọn bất lương quấy nhiễu dọc đường.
Bà Costin gần như đổ sụp xuống
vì hoảng sợ. Bàn tay bà run rẩy bám lấy cột đèn.
Người đàn ông Á Châu cũng lùi về phía sau, đưa tay làm
dấu thánh giá. Tôi thấy áy náy vì câu nói sỗ sàng của
gã xà ích. Nhưng thật ra, không thể đòi hỏi một gã
đánh xe vùng rừng núi phải ăn nói lễ độ hơn. Bà thư
ký cũng đã nói rõ, phí di chuyển do bên đối tác chi trả
nên họ có quyền lên lịch trình.
Sàn xe rất cao. Có lẽ đây là
loại xe được thiết kế đặc biệt cho vùng đồi núi.
Khó khăn lắm tôi mới đưa được thân mình hơn một
trăm ký lô lên xe, cứ rủa thầm trong bụng, hy vọng
chiếc xe ọp ẹp này không mất tới ba ngày lọc cọc bò
về Bucovina. Gã xà ích bằng cử động của một bàn tay
đã ném gọn chiếc va li to lớn của tôi lên khoang sau.
Tôi ngẩn người nhìn bàn tay lông lá mạnh mẽ dị thường
của gã, bỗng nhớ tới một đoạn trong nhật ký của
ông tôi. "Người đàn ông này có một sức mạnh
của ma quỷ." Ý nghĩ lạ lùng cũng kéo qua đầu,
dường như gã thị trưởng bí ẩn đó biết tôi đứng
trò chuyện với những người đợi xe về Bistritz.
Chiếc xe rung lên nhè nhẹ trước
khi chuyển bánh. Cảm giác hối hận lần đầu tiên ập
tới, nhưng tôi vội vã xua nó đi. Phía sau màn bụi, chiếc
bóng của người đàn ông Á Châu và bà Costin hiện ra
xiêu vẹo. Họ cuống cuồng làm dấu thánh giá và chìm
dần trong vùng sáng ảm đạm. Mãi một lúc sau tôi mới
có thể quên được đôi mắt đẫm nước và giọng nói
thì thào đầy sợ hãi của bà Costin.
Chiếc xe ngựa phóng đi vùn vụt
một lúc thì chậm dần lại. Con đường bắt đầu đâm
vào những khe đá tối đen uốn khúc. Càng lên cao, không
khí càng đặc quánh lại. Tôi với gã xà ích không nói
với nhau câu nào. Tấm áo choàng đỏ trên đầu xe căng
phồng, cuốn chiếc xe ngựa bay lên con đường dốc đá.
Lạy Chúa. Có vẻ như chúng tôi không theo đường liên
tỉnh đi về Bucovina như trên bản đồ. Những con ngựa
theo đường chim bay, phóng thẳng qua vùng núi đá. Xe bẻ
quặt qua một khúc quanh co thắt, mấy cái bánh trượt ra
sát mép đường đổ đá lăn ào ào xuống vực. Tôi có
cảm tưởng như cả chiếc xe đong đưa trên ghềnh vực
thẳm. Thay cho sự hoảng hốt, tôi chỉ thấy mệt mỏi
khủng khiếp. Nhắm mắt thiếp đi trong giấc ngủ u mê,
tôi phó mặc sinh mạng mình cho gã đàn ông xa lạ.
Những tiếng gầm thét khủng
khiếp từ bên ngoài vọng tới làm tôi tỉnh giấc. Nó
giống như tiếng kêu của bầy thú dữ giữa cơn đói
khát. Trong cơn mê muội, tôi đánh rơi quyển nhật ký của
ông tôi trên đùi, lập cập hỏi:
- Tiếng gì vậy?
Người xà ích ngồi phía trước
không nói gì, chỉ vung roi quất mạnh vào không khí. Chiếc
roi da rít lên thành những tiếng thét hãi hùng. Tiếng
thét của những người đàn bà. Nón trùm đầu của gã
đánh xe bất ngờ bị gió giật bay, mái tóc bạc xác xơ
như tẩm muối trắng dựng đứng dưới ánh trăng.
Tôi nghiêng người kéo tấm màn
cửa, nhìn vào màn đêm mịt mùng. Xa xa, ánh trăng đổ
lên những cây thập tự giá sơn trắng. Mịt mùng hoang
mộ. Những ngôi mộ san sát kéo dài tới tận chân bóng
đêm. Cứ như loài người dồn cả về đây để tìm cái
chết. Những người đàn bà mặc áo trắng ôm bó hoa tang
lễ đứng bên dãy hàng rào nghĩa trang xiêu vẹo, ngước
mắt nhìn theo xe. Ánh mắt giận dữ và điên loạn của
họ làm tôi rợn người. Giữa gã đánh xe và những người
nông dân vùng này e có mối thâm thù truyền kiếp nào đó.
Họ có lý do gì để ra viếng nghĩa trang vào lúc đêm hôm
khuya khoắt? Hay họ đứng đó để chờ tôi, truyền đi
thông điệp của lòng căm thù.
Từng đàn dơi đen từ rừng
thông chấp cánh vùn vụt bay ra. Những cặp mắt trong đêm
đỏ rực thèm khát lùng kiếm ánh mắt tôi. Trong một
khoảnh khắc thần kinh tôi tê dại như bị thôi miên. Tay
chân tôi cứng đờ. Đám dơi xông tới bên thành xe, chúng
nhe hàm răng nhọn lểu cắn tới tấp lên lớp vải màn.
Phía trước có tiếng hét:
- Bỏ tấm màn cửa xuống.
Tôi giật mình rụt tay lại, tấm
màn cửa nặng nề rơi xuống. Hàng loạt tiếng va đập
vào khung cửa kính như là mưa đá. Gã xà ích lại liên
tục quất roi vào không khí giữa tiếng la rú đau đớn
cuồng nộ của đám phụ nữ. Bàn tay tôi tướt mồ hôi
lạnh lần chui vào túi áo. Tôi đụng phải sợi dây tỏi.
Chiếc thánh giá gỗ nổi cộm giữa lòng bàn tay. Trong nỗi
cô đơn hoảng loạn, tôi cuống cuồng tròng sợi dây tỏi
qua đầu.
***
Đã quá nửa đêm vài phút.
Điều này làm tôi thực sự hoảng hốt. Nỗi sợ hãi vào
thời khắc nửa đêm đã liên tục bị những biến cố
gần đây khuyếch đại lên. Bao tử tôi như căng ra vì
thứ cảm giác chờ đợi tồi tệ.
Một con chó bắt đầu tru lên ở một ngôi nhà nông dân nào đó, từ trong chốn xa xăm huyền bí. Tiếng rú dài dằng dặc mang nỗi sợ hãi kinh khiếp. Tiếng gọi của nó liền được một con chó khác hưởng ứng, rồi con này tiếp theo con khác. Gió trên đường mang tiếng rú kinh hoàng lên đôi cánh, thổi lời điên dại vào hoang vu, thổi lên khắp cả vùng đất bao la bóng đêm mông tưởng.
(Jonathan Harker)
***
Ngày 7 tháng 7, Karpaten
Tòa thị sảnh nằm trên triền
núi cao, nhìn xuống bình nguyên tối đen. Chúng tôi tới
đây vào lúc cuối đêm. Phía Đông trời ửng một màu
xám nhạt buồn thảm. Chiếc xe ngựa không còn phóng đi
như vũ bão mà nặng nhọc bò lên dốc. Những con ngựa
không biết vì kiệt sức hay vì sợ hãi, chúng cất bước
chân nghiêng ngả trên nền đá lào xào.
Lâu đài hiện ra dưới ánh sáng
mờ nhạt sừng sững như một pháo đài mang kiến trúc
Bhangarh ma quái cổ kính. Mặt tiền phẳng phiu bằng đá
tảng ngã màu rêu đen với những hàng cột đá lở lói.
Những dãy cửa vòm sâu hun hút xen giữa những bờ tường
đá đỏ kiểu Ả Rập đổ nát càng tạo thêm vẻ cô
quạnh thiếu thân thiện. Vài hàng thông khô cằn cố vươn
những cái đầu rắn độc lên trong gió dữ để phô bày
vẻ ảm đạm thê lương của một vùng đất mang nặng
lời nguyền chết chóc. Phần bên phải hướng về bờ
tường núi dốc đứng trong tình trạng đổ vỡ tồi tệ.
Mái nhà và tường đổ tạo thành những vệt răng cưa
xấu xí in trên nền trời.
Xe lăn bánh qua cây cầu đá tiến
vào cổng chính. Tôi nghiêng mình nhìn ra, con lạch rộng
và sâu, phủ đầy cỏ dại viền quanh tường thành, càng
tạo nên cảm giác về một pháo đài cố thủ. Trên vòm
cổng đá đen không gắn một bảng hiệu nào ngoài mấy
cụm cỏ khô trồi ra từ kẽ đất. Cánh cửa gỗ mốc
trắng tự động mở ra khi chiếc xe tiến tới gần. Con
đường dẫn vào pháo đài thẳng tắp giữa hai hàng cây
đoan.
Xe dừng trước khoảng sân rộng.
Gã đánh xe lùa ngựa đi rồi không thấy trở lại. Bên
ngoài trời dần sáng. Tôi tự bắt mình ngồi im, ra vẻ
chờ đợi theo đúng phép xã giao. Thật ra là tôi mệt mỏi
rã rời, chân nhấc không lên, cứ như cả đêm chưa hề
chợp giấc. Buổi sớm mai ở nơi này yên tĩnh lạ lùng.
Đó không là không gian bắt đầu một ngày mới. Đó là
sự im ắng của cái chết.
Gã xà ích vẫn không quay trở
lại. Tôi há miệng ngáp một cái muốn sái quai hàm. Cố
cưỡng lại cơn buồn ngủ, tôi leo ra khỏi xe. Toà thị
sảnh vào buổi sáng vẫn u ám hoang phế như trong bóng đêm
lờ mờ. Hôm nay là ngày thứ ba, nhưng có lẽ, còn quá
sớm để nhân viên bắt đầu một ngày làm việc.
Tôi đứng trước cánh cửa gỗ
nặng nề đang hé mở, thầm nghĩ tới cuốn nhật ký của
ông tôi, đây là giờ phút mà lão bá tước ma cà rồng
sẽ đẩy cánh cửa ra và mời tôi vào. "Ông ta cầm
trong tay một ngọn đèn bạc cổ. Nó cháy sáng dù chẳng
hề có một cái ống thông gió hay chao đèn nào. Bóng tối
như run lên bởi tiếng kéo cửa lách cách của con người
này." Nhưng bây giờ là buổi sáng. Đó chính là
chi tiết khác biệt rất lớn so với phần nhật ký của
ông tôi. Tự điều này làm tôi thấy bớt nghi ngại vì
khung cảnh u đột và cách tiếp đãi kỳ dị. Tôi bình
tĩnh đẩy cửa bước vào.
Khác với vẻ đổ nát bên ngoài,
đại sảnh bên trong mang kiến trúc Hy Lạp với một vẻ
xa hoa cổ kính. Tường trát vữa thô trắng kéo dài lên
tới phần trần nhà chạm trổ thanh mảnh kiểu frieze. Sàn
nhà lót đá tảng khắc hoạ, bàn gỗ quý mạ vàng với
những chiếc bình đất hoa văn. Mặt tường phía sau để
trống nhìn thẳng ra khoảng sân giữa vuông vức. Những
dãy cột đá trắng peristyl thẳng tắp. Loáng thoáng vườn
nho và bồn nước uống phun bọt trắng. Mọi thứ đều
trắng trẻo, sạch sẽ và không đáng nghi ngờ. Tôi ngồi
xuống chiếc ghế bành êm ái thêu hoa cúc trắng. Chiếc
ghế êm tới độ, tôi lún sâu vào lớp vải mềm mại và
thiếp đi.
***
Ngày 10 tháng 7, Karpaten
Tôi tỉnh dậy trong căn phòng
rộng cổ kính, màu đỏ. Ánh sáng xuyên qua tấm màn cửa
dày hắt lên mảng tường đỏ một vùng sáng yếu ớt,
quá yếu ớt để có thể đoán được thời khắc. Tôi
nhìn đồng hồ, mười bảy giờ chiều, ngày 10 tháng 7.
Không thể tưởng tượng nổi, tôi đã ngủ liền tù tì
hai ngày rưỡi. Cảm giác mệt mỏi vật vờ sau giấc ngủ
dài không rõ do đói khát hay do bị nhiễm cảm. Tôi rùng
mình ớn lạnh. Bây giờ là tháng bảy, không hiểu sao đã
lạnh lẽo như giữa mùa đông. Lò sưởi cháy đỏ trong
góc phòng dường như không mang lại chút hơi ấm nào. Nơi
này lạnh lẽo như đáy mộ.
Tôi loạng choạng đứng dậy,
thấy mình rất yếu. Bàn tay tôi chống lên mép giường
xanh lè trong ánh sáng mập mờ. Hành lý của tôi để gọn
ở góc phòng. Tôi lục tìm tấm áo len. Đó là cái áo len
duy nhất Kathi nhét thêm vô va li. Khi đó tôi đã càu nhàu,
không ai đem áo len về miền nam vào tiết tháng bảy.
Kathi cũng đang đi công tác sang Nhật, chắc là cô ấy
không quá lo lắng vì từ hai ngày nay tôi không liên lạc.
Tôi mở iphon, không có tin nhắn nào mới. Thùng email cũng
chỉ có vài thư quảng cáo. Pin sắp hết. Tôi tìm quanh,
không thấy ổ cắm nào. Thật là bất tiện khi phải ở
trong căn phòng không có ổ cắm điện. Tôi để iphon lên
đầu giường, đi tìm người hỏi cho ra lẽ.
Ngoài hành lang và tiền sảnh toà
thị chính vắng ngắt. Những cánh cửa gỗ lớn nặng nề
đóng im ỉm. Tôi đoán, giờ chiều này nhân viên công
chánh đã nghỉ việc. Ánh sáng cuối ngày tắt dần, chỉ
còn vài vệt héo úa đọng quanh mép màn cửa sổ. Bụng
tôi đói cồn cào và tôi tưởng rằng mình đang lả đi
vì đói. Bởi vậy, khi gã xà ích xuất hiện, tôi vui mừng
kêu lên như gặp lại người thân.
- A. Chào anh. Tôi xuống đây hỏi
chỗ cắm điện.
Gã đàn ông nhếch môi cười khó
hiểu. Nụ cười để lộ hàm trăng trắng nhọn lại mang
một vẻ độc ác buộc tôi phải ngưng ngay cách chào đón
thân thiện của mình. Gã nói:
- Ngài thị trưởng mời ông sang
phòng khách dùng cơm tối.
Tôi lẳng lặng đi theo gã qua một
dãy hành lang lát đá. Hơi lạnh từ đá toả ra làm tôi
run lẩy bẩy, suýt nữa thì tôi phải kêu lên. Bây giờ
là tháng 7, giữa mùa hè, không lẽ gì ở vùng đất phía
nam này lại lạnh lẽo như vậy. Gã xà ích cầm cây đèn
bão vẫn bước đi vội vã. Tôi nhìn ánh đèn lung linh
phản chiếu trên vách tường đá hoa cương bóng loáng,
kinh hãi nhận ra một điều. Gã xà ích không có bóng.
Sự phát hiện này làm tôi choáng
váng, nhưng thật tình, cho tới lúc này tôi cũng không thể
tin vào những chuyện ma quỷ nhảm nhí. Tôi theo gã đi vào
phòng ăn rộng rãi thắp nến dọc trên tường. Phòng ăn
se lạnh dù bốn lò sưởi lớn ở bốn góc cháy đang hừng
hực. Dường như chúng vừa được đốt lên vì đám củi
phía trên còn chưa kịp bắt lửa. Dãy bàn lớn xếp theo
chiều dài phòng phủ khăn trắng xoá, bày biện những đĩa
hoa quả màu sắc rực rỡ tươi tốt. Gã xà ích đưa tôi
vào chiếc bàn tròn riêng biệt cuối dãy, ở đó đã sắp
sẵn những chiếc ly thuỷ tinh sáng bóng. Cảm giác xa hoa
và sạch sẽ nơi này mang lại cho tôi một sự dễ chịu
hơn là thèm ăn. Cho tới lúc thức ăn được dọn ra, tôi
vẫn không tìm lại được cảm giác đói bụng như khi
vừa thức dậy.
Những món thức ăn nấu theo kiểu
Đức cổ truyền, do hai người đàn bà mặc áo trắng
khéo léo bày ra bàn. Thịt giò heo hầm rục, bắp cải
trắng muối chua. Xúc xích chiên vàng kiểu Bayern với
khoai tây rang mỡ heo hung khói. Ragu bò hầm ớt tây và
hành củ. Thức ăn được trình bày đẹp đẽ trong những
cái dĩa pha lê trắng toát. Gã xà ích mang ra chai rượu
đỏ. Bằng một cử động dị thường của hai ngón tay,
gã giật văng nắp bần có đóng niềng kẽm. Tiếng nổ
bục vang lên đánh động bầu không khí im ắng khó chịu,
khi gã xà ích và những người hầu bàn cứ câm nín một
cách thiếu lịch sự. Tôi nhấp một ngụm rượu lờ lợ
chua, chẳng rõ là thứ rượu quái quỷ gì.
- Tôi muốn gặp ông thị trưởng
ngay sáng sớm mai.
- Ngài thị trưởng đã rời khỏi
Karpaten ngày hôm qua.
Tôi muốn nhảy nhổm lên. Thì
ra, trong lúc tôi ngủ quên, ông ấy đã ra đi.
- Bao giờ ông ấy về?
- Không ai biết được.
Suýt nữa tôi hất luôn phần
rượu còn lại vào bộ mặt xanh lè của gã đàn ông. Tôi
theo lời mời của bên bán đất tới đây và hoàn toàn
không có ý định ở lại chốn hoang vu hẻo lánh này lâu
hơn hai mươi bốn giờ đồng hồ. Chuyện tôi ngủ quên,
phần nào cũng là do lỗi của họ. Chính bọn người này
đã đưa tôi lên phòng và không hề đánh thức tôi dậy.
Tôi kìm nén sự giận dữ, cố nói cho ra lẽ:
- Tôi muốn liên lạc với ông
thị trưởng.
- Ông ấy đã rời xa Bucovina một
khoảng đường rất dài, không thể đuổi kịp. Mời ông
dùng bữa tối.
Gã nói tới đó rối biến ra
khỏi phòng. Tôi bị rơi vào một cảm giác nghi ngại tồi
tệ. Thời buổi này chỉ cần nhấc di động lên là liên
lạc được, thằng điên lại nói "không thể đuổi
kịp" là cái quái quỷ gì. Rõ ràng trong chuyện kinh
doanh đất đai bọn chúng có những vấn đề mờ ám phía
sau. Tôi định ăn nhanh rồi về phòng gọi điện cho công
ty. Bây giờ đã là bảy giờ tối, nhưng tôi vẫn có thể
liên lạc riêng với Yanick Marrell. Gã làm việc bên phòng
điều hành và thường sẵn sàng trả lời điện thoại
ngoài giờ làm việc. Bữa ăn vì vậy mà mất ngon. Nhưng
có lẽ còn vì lý do khác, thức ăn ở đây chỉ có hình
thù mà hoàn toàn không có mùi vị gì. Cả rượu cũng
không hề có mùi rượu.
Tôi nhìn ánh lửa đỏ, bỗng rợn
người. Lửa không có mùi củi cháy. Ánh sáng dường như
chỉ là ảo giác. Căn phòng vẫn lạnh căm.
Tôi trở về phòng. Cảm giác khó
chịu ập tới. Có kẻ nào vừa ở đây. Tôi biết điều
đó vì tấm màn cửa bị vén qua một bên. Gió đang lùa
qua tấm kính hé mở. Tôi lao tới bên giường. Iphon của
tôi đã biến mất.
Cánh cửa phía sau lưng tôi đột
ngột đóng sập lại. Tôi nhào tới bên cửa vặn như
điên nắm đấm.
***
Ngày 12 tháng 7, Karpaten
Tôi bị nhốt trong phòng, như một
tù nhân. Thật không tưởng tượng nổi, ở thế kỷ này
lại có chuyện bạo hành kỳ quái như vậy. Tôi không
nghĩ ra được lý do tại sao mình bị bắt giam. Cuốn nhật
ký của ông tôi cũng không giúp được gì, vì tôi chẳng
tin những thứ ma quái nhảm nhí đó lại có liên quan gì
tới hợp đồng mua bán của công ty, mà tôi là người
đại diện.
Lão thị trưởng biến đi đằng
nào, không một lần xuất hiện. Chỉ có hai người đàn
bà nấu bếp tới phòng tôi để đưa thức ăn và dọn
dẹp vệ sinh. Họ cũng chỉ tới vào ban đêm, nhưng họ
hoàn toàn không giống đám thiếu nữ dâm đãng khát máu
mà ông tôi miêu tả trong lâu đài của bá tước Dracula.
Họ có vẻ nghèo khổ nhẫn nhục và đầy khiếp nhược.
Tôi cố trò chuyện với họ bằng tất cả những ngôn
ngữ tôi có thể sử dụng được. Họ đáp lại bằng sự
im lặng sợ sệt, dù trong ánh mắt của họ, tôi đọc
được sự cảm thông.
Tôi nói như là khóc:
- Tôi bị giữ ở đây đã năm
ngày rồi, cô có hiểu không? Không biết vì lý do gì.
Người phụ nữ trẻ cúi đầu
không đáp. Cô ta để mâm thức ăn lên bàn và lùi dần
ra cửa. Trước khi bước ra, ánh mắt của cô ta nhìn một
lần nghi ngại về phía tấm màn cửa sổ. Tôi phóng tới,
giữ chặt tay áo người phụ nữ trẻ. Bàn tay tôi tưởng
như chụp vào lớp vải mủn như bụi. Cả tấm áo trượt
đi toàn toạt. Người đàn bà hét lên kinh khiếp, đưa
bàn tay xanh xao lên che bờ ngực trần. Trong một phút
chốc, tôi nhìn thấy hai vết tím đỏ trên cổ họng cô
ta.
Cánh cửa phòng bật mở. Gã xà
ích xông vào. Cú đấm kinh khủng phóng tới ngay giữa mặt
làm trời đất nổ hoa tím. Tôi ngã vật xuống đất.
***
Ngày 13 tháng 7, ?
Bên ngoài trời đổ tuyết trắng
xoá lên những hàng cây trụi lá. Cái đồng hồ đeo tay
là người bạn duy nhất giữ tôi lại với khái niệm
thời gian. Nhưng lúc này, tôi cũng không còn tin tưởng
vào nó. Khung cảnh bên ngoài bảo với tôi rằng, bây giờ
là cuối mùa đông. Tôi vẫn ghi ngày tháng lên nhật ký
của mình, dù biết rằng nó rất vô nghĩa. Còn đây là
đâu, tôi cũng không biết.
Hôm qua tôi thử xé ga giường
bện dây thả qua cửa sổ. Nhưng đoạn dây chỉ được
một phần ba đường. Từ đó xuống tới chân tường còn
những hơn mười mét. Sợi dây vải cũng sẽ không chịu
nổi thân hình quá tải của tôi. Bây giờ tôi lại tiếc
là cả đời mình mình không bao giờ chú ý tới việc rèn
luyện thể thao. Một tuần bị nhốt trong phòng, chỉ toàn
ăn và ngủ, có vẻ như tôi tăng thêm vài chục ký. Không
biết bọn chúng nhốt tôi lại để làm gì. Với iphon của
tôi, tên thị trưởng khốn khiếp chắc chắn đã giả
mạo email gửi về công ty, hoàn tất công việc mua bán.
Kathi sau một tuần không nhận được tin tức của tôi,
cô ấy sẽ đoạn tuyệt mối tình năm năm không đem lại
điều gì vui thú.
Tôi tuyệt vọng đấm đá như
điên vào cánh cửa phòng. Cánh cửa bật mở. Cú đấm
khốc liệt của tên xà ích vào giữa mặt tôi khiến trời
đất lại tối đen trong nỗi đau đớn hãi hùng.
***
Khi tôi hơi chồm người lên
cửa sổ, ánh mắt tôi bắt gặp cái gì đó, nó đang
chuyển động ở tầng bên trái phía dưới, nơi tôi đoán
là phòng của bá tước. Tôi thu mình sau bức tường, thận
trọng quan sát.
Tôi thấy cái đầu của bá tước thò bên ngoài. Bộ mặt lão ta tôi không thấy được, nhưng tôi vẫn nhận ra lão qua cái gáy, cách chuyển động của tấm lưng và cánh tay. Tôi biết chắc, không lầm lẫn vào đâu được, đúng là cánh tay đó, cái cánh tay mà tôi đã nhiều lần quan sát và nếm trải sức mạnh ghê ghớm của nó. Thoạt đầu tôi cảm thấy thú vị mà lại cứ buồn cười thế nào. Dù rằng, thật hiếm khi một tù nhân cảm thấy buồn cười. Nhưng rồi tim tôi sững lại như ngừng đập, tôi nhìn thấy lão già từ cửa sổ bò ra và trườn xuống bức tường thành, tấm áo choàng tung bay phấp phới. Thoạt tiên tôi không tin vào mắt mình. Tôi nghĩ đó là ảo giác của ánh trăng, là bóng đêm dị thường, hay một cái gì đó. Nhưng khi tiếp tục quan sát kỹ lưỡng, tôi biết rằng mình không hề lầm lẫn. Tôi thấy những ngón tay và ngón chân bám vào những ngạnh đá, những kẽ vữa nứt nẻ, tận dụng từng chỗ lồi lõm nhỏ nhất để di chuyển với một tốc độ đáng sợ. Như con rắn mối, lão bá tước bò ào ào xuống chân tường.
Tôi thấy cái đầu của bá tước thò bên ngoài. Bộ mặt lão ta tôi không thấy được, nhưng tôi vẫn nhận ra lão qua cái gáy, cách chuyển động của tấm lưng và cánh tay. Tôi biết chắc, không lầm lẫn vào đâu được, đúng là cánh tay đó, cái cánh tay mà tôi đã nhiều lần quan sát và nếm trải sức mạnh ghê ghớm của nó. Thoạt đầu tôi cảm thấy thú vị mà lại cứ buồn cười thế nào. Dù rằng, thật hiếm khi một tù nhân cảm thấy buồn cười. Nhưng rồi tim tôi sững lại như ngừng đập, tôi nhìn thấy lão già từ cửa sổ bò ra và trườn xuống bức tường thành, tấm áo choàng tung bay phấp phới. Thoạt tiên tôi không tin vào mắt mình. Tôi nghĩ đó là ảo giác của ánh trăng, là bóng đêm dị thường, hay một cái gì đó. Nhưng khi tiếp tục quan sát kỹ lưỡng, tôi biết rằng mình không hề lầm lẫn. Tôi thấy những ngón tay và ngón chân bám vào những ngạnh đá, những kẽ vữa nứt nẻ, tận dụng từng chỗ lồi lõm nhỏ nhất để di chuyển với một tốc độ đáng sợ. Như con rắn mối, lão bá tước bò ào ào xuống chân tường.
(Jonathan Harker)
***
Ngày 14 tháng 7, ?
Đó là sự thật. Cho dù tôi
cương quyết không muốn tin vào cuốn nhật ký của ông
tôi thì đó vẫn là sự thật. Tôi đang bị những con quỷ
hút máu người cầm tù. Trong toà lâu đài này, trên cửa
sổ này, tôi đã tận mắt nhìn thấy bọn chúng trườn
xuống từng đàn đi kiếm ăn. Không phải là một tên bá
tước như ông tôi miêu tả. Bọn chúng đã sinh sôi nảy
nở thành một đàn quỷ đông nhung nhúc. Trong đám bò sát
hằng đêm trườn xuống vách đá, tôi nhận ra gã xà ích
trong tấm áo choàng đỏ trải rộng và mái tóc trắng
xoá. Gã luôn bò ở giữa đàn và ra hiệu lệnh.
***
Ngày 15 tháng 7, ?
Bọn chúng trở về lâu đài vào
lúc nửa đêm, mang theo những chiếc bao tải. Lạy Chúa.
Tôi biết rất rõ, cái gì ngọ ngoạy liên hồi trong những
cái túi đen đủi đó. Cuốn nhật ký của ông tôi đã kể
lại chuyện hút máu ghê rợn của bọn ma cà rồng, nhưng
khi đó, chỉ có một mình tên bá tước đi lùng bắt trẻ
em. Giờ đây, cả một đàn quỷ dữ tràn xuống thôn xóm
tìm mồi và chúng trở về với những cái bao tải nặng
trĩu.
Những đứa trẻ bị bắt về
đang nhảy múa, ca hát ầm ĩ ở bên ngoài. Kỳ lạ chưa,
chúng hát những bài ca ngợi công đức ngài thị trưởng.
Tôi tò mò nhìn qua ổ khóa, loáng thoáng nhận ra những
khuôn mặt ngây thơ trong bộ áo quần nhà nông cũ rách.
Có vẻ như, chúng hát vì tin rằng, chẳng mấy chốc sẽ
được đưa về nhà. Càng hát hay sẽ càng sớm được
về. Tôi khiếp hãi, ngồi bệt xuống nền nhà, lắng nghe
tiếng dàn đồng ca cứ thưa thớt dần. Cuối cùng chỉ
còn giọng hát của một đứa rất nhỏ. Nó nhỏ tới độ,
giọng hát còn ngọng nghịu và không thuộc lời. Bất ngờ
nó ngưng hát và thảng thốt gọi "mẹ ơi".
Tôi quỵ xuống sau cánh cửa, máu
trong người đông đặc lại.
***
Ngày 16 tháng 7, ?
Đêm nay tôi phải xé khăn màn
trám kín ổ khoá, trám kín tất cả các khe hở, nhưng
tiếng hát của những đứa trẻ ngây thơ trước giờ bị
hành quyết vẫn len lỏi tìm tới. Nước mắt tôi chảy
đầm đìa trong lòng bàn tay.
***
Ngày 17 tháng 7, ?
Một toán nông dân vác cuốc xẻng
tới dựng trại trước toà thị sảnh. Mấy chuyến xe bò
theo sau chở đầy củi. Người ta bắt đầu đốt lửa
lên và đổ vào đó từng thúng tỏi. Đa phần là phụ nữ
và người già, dáng vóc nghèo khổ và kiệt quệ. Họ tới
để kêu khóc đòi lại đứa con nhỏ đã bị bọn ma cà
rồng bắt đi, đòi lại phần đất của ông bà tổ tiên
đã bị cướp trắng. Tôi đứng bên cửa sổ nhìn xuống.
Trong ánh lửa cháy đỏ, những đôi mắt đẫm nước
ngước lên nhìn tôi đầy thù hận. Tôi nhận ra khuôn mặt
khắc khổ quen thuộc của bà Costin trong hình hài những
người phụ nữ bên dưới. Bất giác tôi lùi lại, giấu
mình sau bờ tường đá. Có lẽ bà Costin và người đàn
ông Á Châu nhỏ bé đó không vô tình đứng chờ xe ở
sân bay. Họ tới đó tìm tôi, cảnh báo một chuyến đi
đầy bất trắc và tội lỗi.
Trong đêm tối, tôi lắng nghe
tiếng khóc bi thảm của những người mẹ bất hạnh. Mùi
tỏi cháy từ mặt đất xông lên nồng nặc. Toà thị
sảnh trở nên im ắng bất thường. Bọn ma cà rồng trốn
ở nơi nào, không thấy chúng bò ra tìm mồi.
***
Ngày 21 tháng 7, ?
Ở nơi này bóng đêm ngự trị
miên viễn. Ban ngày tôi chìm vào giấc ngủ mộng mị và
chỉ giật mình thức giấc khi ngày tàn trên cánh rừng
trụi lá. Tôi nghi rằng thứ nước uống tên là Rakija
chính là thủ phạm.
Đám người dựng trại bên ngoài
đã cầm cự tới ngày thứ ba trong thời tiết giá lạnh
dữ dội. Họ đốt lửa cả ngày lẫn đêm và không thôi
kêu gào. Tiếng khóc bi thương của họ làm tôi không ngủ
yên được. Màu đỏ trong căn phòng làm thần kinh tôi
càng thêm căng thẳng. Huyết áp tôi tăng cao, đôi lúc tôi
ngã vật ra giường và không thở được. Những giấc
mộng ma quái lại càng thêm khủng khiếp. Đêm qua tôi mơ
thấy bá tước Dracula, đôi môi đỏ máu của hắn mở nụ
cười tự mãn, "làn sóng đỏ đã lan tới cùng trời
cuối đất".
Tôi nghĩ tới cuốn nhật ký của
ông tôi nhiều hơn bao giờ hết. Từ hôm qua tôi đã đổ
bình nước Rakija xuống bồn cầu và chỉ ngậm tuyết để
cầm hơi.
***
Tôi giở tấm nắp hòm lên.
Một cảm giác rùng rợn tràn ngập tâm hồn tôi. Lão bá
tước nằm đó, có vẻ như một nửa tuổi thanh xuân đã
trở về. Đám râu tóc bạc trắng đã hoá màu xám sẫm,
như màu kim loại. Gò má trở nên đầy đặn. Làn ra trắng
bệch chuyển sang màu hồng ngọc. Miệng lão đỏ hơn bao
giờ hết với đôi môi lấm máu, những giọt máu đỏ
còn chảy ra từ khoé miệng lan xuống tận cằm và cổ.
Thậm chí đôi mắt sâu bốc lửa cũng căng đầy thịt.
Mí mắt và quầng mắt căng mọng. Có vẻ như toàn bộ
cái hình hài khủng khiếp này chứa đầy máu. Lão nằm
đó, như con đỉa bẩn thỉu, hoàn toàn kiệt sức sau khi
hút no máu.
Chỉ cái ý nghĩ này thôi, cũng
đủ làm tôi hoá điên. Lòng tôi dấy lên một ham muốn
dữ dội, quét sạch loài ma quỷ này ra khỏi thế giới
con người. Không có bất kỳ dụng cụ kim loại nào trong
tay, tôi tóm lấy cái xẻng của những người phu huyệt,
nâng cao nó lên, phóng mũi nhọn xuống bản mặt căm ghét
kia. Nhưng tôi gần như không thể làm được chuyện đó.
Khi tôi quay đầu lại, đôi mắt chết chóc chiếu thẳng
vào tôi. Ánh mắt làm tôi tê liệt. Cái xẻng tuột khỏi
tay tôi, trượt qua mặt lão, chẳng tạo nổi một vệt
trầy sướt. Tôi hoảng hốt đánh rơi cái xẻng vắt
ngang mặt hòm. Khi tôi cúi xuống nhấc nó lên, nắp hòm
tự động bật ra, rơi đúng ngay vị trí cũ, cắt tầm
nhìn của tôi ra khỏi cái thân thể rùng rợn đó. Thứ
cuối cùng mà tôi thấy được là bộ mặt xanh lè nhớp
máu với nụ cười nhạo báng, mà sự hung tợn chứa đựng
trong đó chỉ tìm thấy được ở địa ngục của loài
ma quỷ.
(Jonathan Harker)
***
Ngày 22 tháng 7,?
Phải khó khăn lắm tôi mới bám
vào được sơi dây vải, đu xuống cửa sổ phòng dưới.
Sợi dây đứt toạt ra khi tôi bám được vào thành cửa.
Suýt nữa thì tôi rơi xuống bờ tường lở chởm đá ở
độ cao hai mươi mét. Những người nông dân bên dưới
sân cũng hồi hộp theo dõi màn đu dây táo tợn của tôi.
Họ đứng lặng yên cùng chấp tay nguyện cầu. Thật ra,
khi treo giữa ranh giới của cái chết, tôi chỉ thấy căm
ghét họ. Những con người thụ động ngu xuẩn kia, lẽ
ra phải tự làm điều gì đó để thay đổi số phận,
họ lại tin rằng, một tên ngoại quốc xa lạ sẽ mang
lại cho họ tuơng lai. Không, tôi chỉ tìm lối thoát cho
riêng mình. Tôi chẳng muốn dây dưa gì với cái xứ sở
ma quỷ này.
Tôi phát hiện ra con đường cầu
thang bằng đá nằm phía sau cùng dãy phòng chứa bàn ghế
cũ. Những bậc cầu thang trơn tuột bị thời gian mài mòn
góc cạnh và phủ đầy đất mủn. Phải chật vật lắm,
tôi mới có thể lần theo bờ tường đi xuống. Hy vọng
con đường này dẫn ra một góc tường thành nào đó bên
ngoài, và từ đó tôi có thể thoát đi.
Qua một khúc quanh đầy cát đá,
tôi bước vào khu hầm leo lét ánh nến. Cảm giác rợn
người tràn qua con tim làm tôi chỉ muốn thối lui. Nhưng
bây giờ không phải là lúc để quay trở lại nữa.
Đây là khu hầm mộ rộng lớn,
được soi sáng bằng bốn ngọn nến treo ở bốn góc. Ánh
ánh sáng yếu ớt làm cho khung cảnh càng trở nên mông
lung bất tận. Từng dãy quan tài xếp hàng, nối tiếp
nhau vào tận chân bóng đêm. Tôi đưa tay lên ngực nắm
chặt sợi dây tỏi, trong lúc này, đó là thứ duy nhất
thuộc về thế giới loài người. Tôi len đi giữa dãy
quan tài đóng kín, lần sâu về phía sau. Một bệ đá hoa
cương nổi cao giữa gian hầm, mà tôi đoán, đâu đó phía
sau đó ắt phải có đường ra. Khi tôi tiến tới gần bệ
đá, trong ánh nến vàng vọt, tôi nhìn thấy hắn.
Chiếc quan tài bằng kính trong
suốt, góc cạnh mạ vàng sáng loá. Hắn nằm đó, trong
tấm áo liệm đỏ, thư thái chấp tay lên ngực. Bộ mặt
hồng hào no nê và thoả mãn. Nụ cười nở trên đôi môi
đỏ máu, kiêu hãnh giữa thế giới chết chóc do chính
hắn tạo dựng nên. Bất giác tôi lùi lại. Nỗi sợ hãi
truyền kiếp, nỗi sợ hãi truyền từ đời này sang đời
khác khiến tôi tê liệt. Sức mạnh từ cái thây ma đó
toả ra ngùn ngụt, dường như nó biết rằng tôi tới gần
và muốn tiêu huỷ nó. Từ trong cõi chết, quyền lực bạo
tàn vẫn bùng lên trấn áp niềm tin của kẻ đối diện.
Tôi nguyền rủa hắn, nguyền rủa cái vùng đất xa lạ
đang giam giữ mình. Thật ra tôi cũng không rõ, mình đang
ở đâu. Có nơi nào trên thế giới, vào thế kỷ 21 này,
vẫn còn câu chuyện ghê tởm, xác chết tiếp tục sống
bằng máu người. Người chết là trở về với cát bụi,
chỉ có ma quỷ mới duy trì thân xác cho thứ quyền lực
tàn ác, phản bội lại con người. Tiếng hát tuyệt vọng
của những đứa trẻ vô tội vang lên bên tai, tiếng khóc
của những người dân oan mất con, mất đất, tôi tưởng
như nước mắt mình đang trào ra. Trong cơn giận dữ, tôi
tóm lấy cái cán cuốc gãy nằm dưới bệ đá, hăm hở
leo lên, quyết đâm một nhát chí tử vào tim con ác quỷ.
Hắn nằm đó, nhợt nhạt và chết chóc, đôi môi hung tợn
lấm máu căng đầy ham muốn, đôi mắt đỏ rực lòng căm
thù kinh rợn.
Ánh mắt của hắn mang một sức
mạnh ma quái và khả năng thôi miên man dại của loài
mãng xà. Tay chân tôi lại nhũn ra. Cái cán cuốc trượt
dài lên mặt kính. Tôi đảo mắt nhìn quanh, hiểu rõ hơn
hoàn cảnh tuyệt vọng của mình. Trong khung cảnh rùng rợn
này, hàng trăm hàng nghìn quan tài nằm chen chúc nhau chỉ
chờ bóng đêm đổ xuống là bật tung nắp. Bọn quỷ dữ
đã trở thành một lực lượng hung hãn, sức mạnh bóng
đêm của chúng đủ khống chế cả vùng đất nghèo đói
kiệt quệ này.
Giữa lúc đó, tiếng động bên
phía phải tầng hầm đột ngột vọng tới. Ánh sáng heo
hắt cũng từ phía đó tràn xuống địa mộ. Tôi đoán,
bọn chúng có con đường khác để xuống đây. Có lẽ
tôi đã loay hoay trên các căn phòng của toà thị sảnh
quá lâu, trước khi tìm được đường xuống hầm. Lúc
này, ngày đã sắp tàn. Ý nghĩ đó làm tôi càng thêm
hoảng hốt. Chỉ trong chốc lát, những cái thây ma sẽ
sống lại và sẽ chẳng có bản hợp đồng mua bán đất
đai nào giữ cho tôi mạng sống.
Tôi lùi nhanh lại về phía cánh
cửa gỗ dẫn ra cầu thang. Ánh sáng phía bên kia đã soi
rõ khu hầm mộ. Tôi phóng lên cầu thang chạy tháo mạng
lên tầng trên. Phía sau lưng tôi, những tiếng động lục
cục bắt đầu nổi lên. Ban đầu đơn lẻ, dần dà chúng
trở thành tiếng vang động của hàng ngàn nắp quan tài
nổ tung. Tôi phóng đi trong nỗi khiếp đảm, hy vọng sẽ
tìm ra được cổng chính. Chẳng mấy chốc bọn chúng sẽ
phát hiện ra sự vắng mặt của tôi, và trò mèo vờn
chuột sẽ chấm dứt.
Cái bóng to lớn của gã xà ích
hiện ra đầu dãy hành lang bên kia. Gã nhìn thấy tôi,
liền thét lên một tiếng kêu lanh lảnh. Không kịp nghĩ
ngợi gì, tôi chạy luôn lên những bậc tam cấp dẫn về
phòng mình. Nhưng tôi cũng không nhớ rõ, phòng tôi nằm ở
đâu. Trong lúc hoảng loạn, tôi chạy loanh quanh qua những
hành lang rồi chạy lạc lên sân thượng. Nơi đây chắc
đã là tầng cao nhất của toà nhà. Gã xà ích có thể đã
chạy vào phòng tôi. Tôi vội vã đóng chốt cánh cửa gỗ
chắc chắn. Khoảng sân gạch trên này phủ đầy tuyết,
không một dấu chân người. Từ lan can nhìn xuống, cửa
phòng tôi ở đâu đó ngay bên dưới. Tôi nhận ra điều
này nhờ vào những đống lửa đang cháy đỏ dưới sân.
Tôi đưa tay vẫy gọi những
người đốt lửa, nhưng lúc này trời đã mờ tối nên
không ai nhìn thấy tôi. Trong lúc tuyệt vọng, tôi hốt
từng nắm tuyết ném xuống đống lửa gần nhất. Một
cục tuyết may mắn rớt trúng mục tiêu. Tôi thấy lửa
bắn lên và đám ngươi ngồi vây quanh đột ngột đứng
dậy. Họ chỉ chỏ, ra dấu đã nhận ra. Từ trên cao, tôi
gào lên tuyệt vọng: "Tôi ở trên này".
Giữa lúc đó, tiếng chân dữ
dội vang lên phía sau cầu thang. Những người nông dân
dường như đoán được tình cảnh của tôi. Họ kéo tấm
bạt lớn đến bên dưới chỗ tôi đứng. Mười người
đàn bà cố căng rộng tấm bạt ra. Cả đám người la
lên khẩn thiết: "Nhảy xuống. Hãy nhảy xuống đây".
Lạy Chúa tôi, mấy mụ nông dân kia có hiểu gì không.
Tôi đang ở độ cao ba mươi mét, với tấm thân hơn một
trăm ký. Cái tấm bạt nhỏ bé mỏng manh và mười người
đàn bà ốm yếu kia là một kết cuộc bi thảm.
Gã xà ích hét lên man rợ sau
cánh cửa. Một tiếng động dữ dội vang lên. Mấy cái
bản lề long ra, rung lên lẻng xẻng. Tôi biết rõ sức
mạnh khủng khiếp của gã. Chẳng có cánh cửa nào chịu
nổi hai cú đấm của thằng ác quỷ đó. Tôi nhìn xuống
bên dưới. Tự do quá nhỏ bé và mong manh. Tôi nhìn lại
phía sau. Cái chết đứng đó sừng sững.
***
Ngày 31 tháng 10, Berlin
Ghi chú: Nhật ký Jonathan Haker,
in nghiêng, là thủ bút của Bram Stoker.
(Lưu Thuỷ Hương)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét